• TRANG CHỦ
  • NGƯỜI GIẢNG VÀ VIỆC GIẢNG LUẬN
  • THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
  • THƯ VIỆN
    • THƯ VIỆN BÀI GIẢNG
  • GIỚI THIỆU
  • LIÊN HỆ
  • BLOG
  • PODCAST
  • Search
  • Menu
  • TRANG CHỦ
  • NGƯỜI GIẢNG VÀ VIỆC GIẢNG LUẬN
  • THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
  • THƯ VIỆN
    • THƯ VIỆN BÀI GIẢNG
  • GIỚI THIỆU
  • LIÊN HỆ
  • BLOG
  • PODCAST
Giảng Luận Kinh Thánh

Bài viết

admin

CHARLIE KIRK, BIỂU TƯỢNG CỦA LÒNG CAN ĐẢM, SỰ TỂ TRỊ CỦA CHÚA VÀ NIỀM HY VỌNG VỮNG CHẮC CHO CHÚNG TA.

Tháng 9 24, 2025/0 Comments/in THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH, Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh /by admin

Giống như hàng triệu người khác, lòng tôi quặn thắt khi hay tin Charlie Kirk, nhà sáng lập và chủ tịch của tổ chức Turning Point USA, ra đi ở tuổi 31. Tôi góp lời cầu nguyện cùng gia đình và bạn bè anh. Rất nhiều người trong số chúng ta đã phải xót xa cho nỗi đau mà họ phải gánh chịu, cũng như cho sự mất mát của cả một đất nước.

Tôi rất trân trọng đức tin nơi Đấng Christ mà Charlie đã mạnh mẽ bày tỏ. Đây là một vài câu trích dẫn của anh:

Trên Instagram, anh viết: “Tôi tin vào Kinh thánh, và tôi tin rằng Đấng Christ đã sống lại từ cõi chết sau ba ngày. Đây là nền móng cho đức tin của tôi và là kim chỉ nam cho mỗi bước đi của tôi.”

Anh cũng từng chia sẻ trên tờ Charisma: “Chúa Giê-su chính là Đức Chúa Trời trong thân xác loài người, là Đấng đã dạy chúng ta cách sống, và chính Đấng ấy là một món quà cho chúng ta; rằng nếu chúng ta tiếp nhận Ngài là Cứu Chúa của đời mình, chúng ta sẽ có sự sống đời đời …”

Ví Dụ Về Những Tranh Luận Đầy Sự Tôn Trọng Của Charlie

Tôi muốn làm rõ rằng, vụ sát hại Charlie Kirk sẽ là một bi kịch lớn hơn nữa nếu Charlie không phải là Cơ Đốc Nhân (nếu cuối cùng anh không về với Chúa). Khoan nói đến đức tin và chính trị, vụ sát hại này vẫn sẽ là một hành động của tội ác. Thật vậy, trong lĩnh vực chống nạn phá thai, lĩnh vực mà cá nhân tôi luôn quan tâm, và tại sự kiện ủng hộ sự sống, Charlie đã chứng tỏ anh là một nhà hùng biện mạnh mẽ, người mà tôi luôn nói amen mỗi khi nghe anh chia sẻ về nạn phá thai.

Tôi không biết Charlie Kirk một cách cá nhân, nói cách khác, tôi chưa từng gặp anh, cũng chưa từng nghe anh chia sẻ ở đâu khác. Thỉnh thoảng, tôi bắt gặp clip về nhiều các chủ đề khác nhau mà anh có chia sẻ, và tôi phải thán phục khả năng tư duy logic của anh. Cũng có lúc anh nói những điều mà tôi không đồng tình. Nhưng vậy thì sao? Sự bất đồng là điều bình thường – Tôi cũng có lúc bất đồng với bạn bè và cả người dẫn dắt thuộc linh của tôi, và họ cũng có lúc bất đồng với tôi. Tôi cũng thích cách Charlie đôi lúc đã chỉ trích tổng thống Mỹ ở một số lĩnh vực, và những lúc đó, anh càng có sức thuyết phục hơn khi anh đồng tình với cách làm của tổng thống. Và, một lần nữa, vậy thì có sao?

Charlie Kirk là một quý ông tử tế với đức tin chân thành, người sẽ bảo vệ đức tin của mình với những logic không phổ quát. Anh là tấm gương cho các sinh viên khắp cả nước noi theo, không những kêu gọi họ lên tiếng, nhưng dạy họ cách lên nói ra lẽ thật trong tình yêu thương. Anh cũng là người anh em trong Chúa, cho dù nhiều Cơ Đốc Nhân có những bất đồng với anh, cũng như cách mà họ bất đồng với chính tôi. Đây là điều bình thường, tự do ngôn luận và tranh luận cởi mở là một phần của đất nước chúng ta, đồng thời chính là sức mạnh của chúng ta.

Charlie Kirk là minh chứng cho một chính trị gia không la hét, không ồn ào, không lăng mạ, những điều không chỉ gây khó chịu mà còn không hề hiệu quả. Tôi thực sự đánh gia cao điều đó. Trong cả hai vai trò, lãnh đạo chính trị và lãnh đạo hội thánh cũng như các tổ chức cơ đốc, tôi tin rằng các lãnh đạo phải luôn sẵn sàng đối đối với những thách thức từ bạn bè và đồng minh khi cần thiết, nhưng tất nhiên chỉ nói lẽ thật khi họ đón nhận điều đó trong tình yêu.

Dù sao đi nữa, phản ứng cho những xung đột chính trị không bao giờ nên là bạo lực. Giết người không bao giờ nên là sự đáp trả một ai đó đang dùng quyền tự do ngôn luận và công khai chia sẻ ý kiến của họ. Giết người, trong mọi trường hợp, đều độc ác bất kể chúng ta có bất đồng với ai đó trong bất kì lĩnh vực nào. Tôi tin vào quyền tự vệ, nhưng việc sát hại người khác không phải, và không bao giờ là biểu hiện của sự tự vệ.

Không ai trong chúng ta luôn đồng tình với người khác (và nếu có, thì điều đó có nghĩa là chúng ta vẫn chưa có suy nghĩ của riêng mình). Nhưng khi tôi xem đoạn clip mà Charlie cực kỳ tử tế với những người công khai và mạnh mẽ thách thức anh, thậm chí khuyến khích những ý kiến trái chiều. Anh tin vào một cuộc đối thoại cởi mở về những điểm bất đồng, vào việc nhất quán trong logic, nhưng không hề bảo thủ, và tôi thích điều đó ở anh. (chúng ta nên lắng nghe những ý kiến bất đồng, vì nếu không, chúng ta chỉ như những người điếc.) Charlie đã nói rõ với những người trẻ rằng họ nên yêu đất nước chưa hoàn hảo này, và hãy nỗ lực kiến thiết đất nước, khiến nó trở nên tốt đẹp hơn. Anh cũng cho họ thấy họ cần đứng lên bảo vệ niềm tin của mình với một tấm lòng mềm mại, không thù hằn, không đối kháng. Đó là điều mà tôi thiết nghĩ không chỉ người trẻ mà những người lớn tuổi cũng cần học hỏi. Cám ơn anh, Charlie Kirk. Và cám ơn Ngài, Chúa Giê-su.

Là tôi tớ của Chúa, chúng ta không bao giờ được mù quáng đi theo bất kì ai. Trên hết, chúng ta theo Vua Giê-su, và điều đó có nghĩa là chúng ta cần suy xét ý kiến của người khác, có lúc đồng tình nhưng chắc cũng có lúc không. Và điều đó cũng đòi hỏi sự lắng nghe, và nỗ lực tìm kiếm điểm chung; đó cũng là những gì mà Charlie Kirk đã làm trong nhiều cuộc đối thoại. Anh sẽ nói những câu như, “Hãy làm rõ những điều mà chúng ta cùng đồng thuận.” Tôi ước ao chúng ta đều có thể học theo anh như một tấm gương về cách giao tiếp trong vòng những người tin Chúa cũng như cộng đồng những người chưa tin, bởi vì giá trị đó quan trọng cho gia đình, hôn nhân, và trong cách nuôi dạy con cái.

Cái Chết Của Một Biểu Tượng Quốc Gia Thức Tỉnh Mỗi Chúng Ta

Khi nhắn tin cho một cháu trai về cái chết của Charlie vài giờ sau khi cái chết của anh, tôi đã nói rằng tôi lớn lên với những ký ức sống động về vụ sát hạt tổng thống Kennedy khi tôi mới học lớp ba. Tôi nhớ mình đã đứng trên một cầu thang trường tiểu học Orient khi nghe tin này. Tôi lúc đó đã ngồi với mẹ và anh trai trước chiếc TV đen trắng, xem tin tức hàng giờ, rồi hàng ngày. Thấm thoắt đã năm năm trôi qua cho đến mùa xuân năm tôi lên lớp chín ở Orient, khi một lần nữa một nhân vật đã bị sát hại: Martin Luther King.

Vài giờ sau cái chết của King, tổng thống Bobby Kennedy đã tạm hoãn bài phát biểu vận động tranh cử chuẩn bị cho một cuộc mít tinh chính trị. Micro đã thu được tiếng ông hỏi ai đó, “Họ đã biết tin về Martin Luther King chưa?” và khi được trả lời là chưa, ông đã yêu cầu tất cả mọi người hạ tấm bảng của mình xuống. Sau đó ông nói, “Tôi có một tin buồn cho các bạn, cho tất cả công dân đáng mến, và những người yêu hòa bình trên khắp thế giới, rằng Martin Luther King đã bị bắn và ra đi vào tối ngày hôm qua.”

Những tiếng kêu đầy kinh ngạc nối tiếp nhau, và nhiều người trong đám đông đã khóc. Ngày hôm đó, Kennedy không nói gì về chính trị, không nói gì về chiến dịch của mình, chỉ giữ im lặng cùng đám đông đang bàng hoàng và đau buồn, đơn giản là vị sự sống một con người quan trọng hơn chính trị rất nhiều.

Những lời tiếp đó của Kennedy là: “Ngày hôm nay là một thách thức cho nước Mỹ, và chúng ta hãy sớm trả lời câu hỏi quốc gia này cần phải trở nên như thế nào, và hướng đi nào của tương lai cho nước Mỹ.” Câu hỏi này, ngày hôm nay, cũng áp dụng cho bối cảnh cái chết của Charlie Kirk.

Trở lại thời thơ ấu, khi mới chỉ là một cậu thiếu niên mười bốn tuổi chưa bao giờ nghe về phúc âm, tôi đã khóc vì cái chết của Martin Luther King. Mùa xuân năm ấy, trước cuộc bầu cử sơ bộ ở bang Oregon, tôi đã tham gia vào chiến dịch tranh cử tổng thống của Bobby Kennedy, đi từng nhà để phát tờ rơi. Sau đó, chỉ hai tháng sau khi King bị sát hại, Bobby Kennedy cũng vậy. Tôi đã suy sụp, vì Bobby kennedy đối với tôi cũng giống như Charlie Kirk đối với nhiều người trẻ trên khắp đất nước, bao gồm cả những người đã bất đồng với anh nhưng với sự tôn trọng.

Là một thiếu niên không có đời sống thuộc linh, đầu óc tôi đã chứa đầy những ký ức sống động về những tin tức liên quan đến các vụ giết người, ám sát, đám tang của những người nổi tiếng. Tôi đã từng bị ám ảnh trong cảm giác tuyệt vọng, rằng thế giới suy cho cùng cũng chỉ là một mớ hỗn độn, và rồi vài năm sau, tôi nhận ra bản thân cũng là một mớ hỗn độn. Đó là khi tôi quay về với Chúa Giê-su.

Đó là lý do tại sao tôi đặc biệt cảm thấy tiếc cho những người trẻ, cả người tin và chưa tin Chúa, những người đã ủng hộ Charlie Kirk. Nhiều người trong số họ bây giờ đang cảm thấy chính xác những gì tôi đã trải qua những ngày đó. Khi bạn bắt đầu đặt niềm tin và yêu mến một người phát ngôn của công chúng, thì khi họ bị giết, cảm giác ấy như thể bạn cũng đã chết đi một phần.

Một trong những đứa cháu của tôi, 19 tuổi, đặc biệt trân trọng Charlie Kirk, đã nhắn tin cho tôi:

Những điều xảy ra thật quá khủng thiếp cho gia đình anh và cho đất nước chúng ta. Trong những khoảnh khắc đen tối này, cháu đã cầu nguyện để bạo lực không tiếp diễn nữa. Thật đáng hổ thẹn cho con người khi cháu nghĩ đến những sự giết chóc này; rằng quả thực nếu không có Chúa Giê-su, địa ngục mới là nơi mà loài người nên thuộc về.

Nguyện Chúng Ta Biết Đếm Các Ngày Của Mình

Khi hầu hết những ai viết về Charlie Kirk đều tập trung và sự bất công và bất hạnh, tôi muốn làm điều gì khác biệt: một lời nhắc nhở rằng không ai có thể chắc chắn mình còn sống đến ngày mai. (Ở trong sự tể trị của Đức Chúa Trời yêu thương, không phải do định mệnh)

“Không ai có quyền trên sinh khí để cầm giữ nó lại, Cũng không ai có quyền trên ngày chết.” (Truyền Đạo 8:8). Thật là kiêu ngạo nếu ai đó đang nghĩ theo hướng ngược lại. Chúng ta thường sống dưới ảo tưởng rằng cuộc sống của chúng ta đang nằm trong tay mình. Nhưng lời Chúa cảnh bảo điều ngược lại:

“Bây giờ, hỡi anh em là những người đang nói: “Hôm nay hoặc ngày mai chúng ta sẽ đến thành phố kia, ở đó một năm, buôn bán và kiếm lời”. Nhưng anh em không biết ngày mai sẽ thế nào, sự sống của anh em là gì? Vì anh em chỉ như hơi nước, xuất hiện trong giây lát rồi lại tan ngay. Đúng ra anh em phải nói: “Nếu Chúa muốn và chúng ta còn sống thì sẽ làm việc nọ việc kia.” Nhưng anh em lại kiêu căng tự phụ! Mọi thứ kiêu căng như thế đều là xấu.” (Gia-cơ 4:13-16)

Có tiếng nói: “Hãy kêu lên!”

Và có tiếng đáp: “Tôi phải kêu thế nào?”

“Loài người giống như cỏ,

Mọi vẻ đẹp của nó như cỏ hoa đồng nội.

Cỏ khô, hoa rụng,

Vì hơi thở của Đức Giê-hô-va thổi qua.

Thật vậy, loài người chỉ là cỏ:

Cỏ khô, hoa rụng,

Nhưng lời của Đức Chúa Trời chúng ta đứng vững đời đời!” (Ê-sai 40: 6-8)

Cầu xin Chúa dạy chúng con biết đếm các ngày chúng con Hầu cho chúng con được lòng khôn ngoan. (Thi Thiên 90:12)

Vì Đức Chúa Trời không ban cho chúng ta tinh thần nhút nhát, nhưng tinh thần mạnh mẽ, có tình yêu thương và tự chủ. (2 Ti-mô-thê 1:7)

Hy vọng nơi Chúa Giê-su không thể bị lay chuyển

Trong giai đoạn đen tối nhất của cuộc đời mình, đầy đau khổ và sợ hãi, vua Đa-vít vẫn khẳng định:

Đức Giê-hô-va là ánh sáng và là sự cứu rỗi của tôi,

Tôi sẽ sợ ai?

Đức Giê-hô-va là đồn lũy của mạng sống tôi,

Tôi sẽ hãi hùng ai? …

Dù một đạo binh đóng đối diện với tôi,

Lòng tôi sẽ chẳng sợ;

Dù giặc giã nổi lên chống lại tôi,

Khi ấy tôi vẫn vững tin nơi Chúa…

Khi cha mẹ từ bỏ con

Thì Đức Giê-hô-va sẽ tiếp nhận con…

Con tin chắc sẽ thấy sự tốt lành của

Đức Giê-hô-va Trong đất người sống.

Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va;

Hãy mạnh mẽ và can đảm!

Phải, hãy trông đợi Đức Giê-hô-va! (Thi Thiên 27)

Hy vọng của con dân Chúa không phải là ảo tưởng rằng chúng ta sẽ không đau khổ. Hy vọng của chúng ta đặt trong Chúa Jesus là một ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ chấm dứt sự đau khổ của chúng ta (Khải Huyền 21:4). Hy vọng của chúng ta phải đặt trong sự thật rằng không có gì trong hay ngoài thế giới này – bi kịch, tai nạn, khủng bố, hay bất cứ điều gì – có thể phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ Jesus (Rô-ma 8:38-39)

Với nhiều người trong chúng ta, “hy vọng” nghe mơ hồ và ảo tưởng, nhưng hy vọng trong Kinh thánh có nghĩa là sự mong đợi với đức tin. Chúng ta mong đợi một điều chắc chắn, đã được mua bằng huyết Chúa trên thập tự, được hứa và sẽ được thực hiện bới một Đức Chúa Trời toàn tri.

Mười năm trước, Nanci vợ tôi (đã qua đời) đã đặt những lời này từ Ca Thương chương 3 lên tường phòng ngủ của chúng tôi. Tôi vẫn nhìn thấy những lời này mỗi ngày:

Nhưng khi nhớ lại điều đó Thì con có niềm hi vọng.”

Nhờ lòng nhân từ của Đức Giê-hô-va mà chúng ta không bị tiêu diệt,

Lòng thương xót của Ngài không bao giờ dứt.

Mỗi buổi sáng, lòng thương xót của Chúa tươi mới luôn,

Sự thành tín Ngài lớn biết bao.

Tôi tự nhủ: “Đức Giê-hô-va là sản nghiệp tôi,

Nên tôi hi vọng nơi Ngài.”

Đức Giê-hô-va nhân từ với những ai trông đợi Ngài,

Với linh hồn nào tìm kiếm Ngài.

Thật tốt cho người yên lặng trông chờ

Ơn cứu rỗi của Đức Giê-hô-va.

Niềm hy vọng hướng tới tới ánh sáng nơi cuối đường hầm của cuộc đời. Nó không chỉ cho chúng ta động lực đi tiếp đoạn đường ấy, mà còn lấp đầy trái tim chúng ta bằng sự mong đợi về một thế giới sống động, tươi mới, xinh đẹp, không còn đau đớn, không còn khổ đau, khủng bố và chiến tranh. Một thế giới mới được cai trị bởi Đấng duy nhất xứng đáng (Khải Huyền 5:12). Dù chúng ta không biết chính xác khi nào, nhưng chúng ta biết chắc rằng dù phải đi qua cái chết hay bằng sự trở lại của Đấng Christ, sự đau khổ của chúng ta sẽ đến hồi kết. Từ trước sáng thế, Đức Chúa Trời đã vạch ra một ranh giới ở cõi đời đời để nói với con cái của Ngài rằng: “tất cả đến đây kết thúc, và sau đó chỉ còn niềm vui bất tận”

Trong tác phẩm Sự Trở Lại Của Vua của Tolkian, Aragorn nói: “Bình minh mãi mãi là hy vọng của loài người.” Vua Đa-vít đã viết: “Sự khóc lóc đến trọ ban đêm, Nhưng buổi sáng liền có sự vui mừng.” (Thi Thiên 30:5)

Ban đêm có thể dài đối với con dân Chúa, nhưng sự thật là: buổi sáng sẽ đến và không bao giờ kết thúc.

Sự vui mừng cũng vậy!

Tác giả: Randy Alcorn – sáng lập và giám đốc của mục vụ Góc Nhìn Đời Đời

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc

Link bài viết gốc: Charlie Kirk, the Brevity of Life, God’s Sovereignty, and Our Rock-Solid Hope – Eternal Perspective Ministries

admin

5 ĐIỀU LÀM TỔN HẠI UY TÍN CỦA MỘT MỤC SƯ

Tháng 8 15, 2025/0 Comments/in THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH, Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh /by admin

Một nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu Barna vào năm 2020 cho thấy uy tín của các mục sư và nhà truyền giáo đang giảm dần trong những năm gần đây, cả trong cộng đồng Cơ đốc giáo lẫn ngoài cộng đồng Cơ đốc giáo.

Các yếu tố góp phần vào sự suy giảm này bao gồm những phản ứng khác nhau đối với đại dịch này (tất cả đều gây chia rẽ theo một cách nào đó), cũng như những bê bối nổi bật liên quan đến hành vi tình dục không đúng đắn, lạm dụng và việc sử dụng sai quỹ.

Đối với những người không tin, Mục sư không nhất thiết bị nhìn nhận hoàn toàn tiêu cực. Tuy nhiên, họ được xem là “lạc hậu” nếu không muốn nói là vô dụng, khi nền văn hóa hiện nay tiếp tục xa rời những chuẩn mực và giá trị Do Thái – Cơ đốc giáo.

Đối với nhiều Mục sư trong các Hội thánh địa phương, việc mất uy tín dường như là điều đang xảy đến với họ nhiều hơn là điều họ tự gây ra. Họ không thể kiểm soát các xu hướng lớn hơn đang góp phần làm thay đổi hình ảnh hội chúng của họ hoặc những hành vi lạm dụng và sai trái của các lãnh đạo Cơ đốc giáo khác mà họ không có mối quan hệ hay ảnh hưởng gì.

Tuy vậy, vẫn có những điều không liên quan đến lạm dụng hay biển thủ mà vẫn làm tổn hại uy tín của Mục sư với hội chúng của họ, cộng đồng xung quanh.

Dưới đây là năm điều làm tổn hại uy tín của một mục sư.

1. Phóng đại Con Số hoặc Tác Động

Mặc dù các mục sư nói và tin rằng việc phát triển hội thánh của họ là giúp người ta thực sự gặp gỡ Chúa Giê-su và biến đổi cuộc sống của họ hơn là lấp đầy phòng nhóm, nhưng hầu hết các mục sư vẫn rất hào hứng với các con số.

Khi các mục sư chưa có một ý thức lành mạnh về nhân dạng của mình không phụ thuộc vào những chỉ số này, họ bắt đầu xác định giá trị của mình bằng “số lượng người tham dự, ngân sách và tòa nhà.” Kết quả là, họ có thể bị cám dỗ để phóng đại những số liệu này hoặc đánh giá quá cao mức tác động của hội thánh của họ đối với cộng đồng.

Không chỉ không lành mạnh, mà theo thời gian, điều này trở thành một yếu tố gây tổn hại vô cùng lớn đến uy tín của mục sư.

Tôi đã từng làm việc trong một đội ngũ phục vụ Hội thánh với một lãnh đạo mục vụ, người luôn phóng đại số lượng người tham dự mỗi buổi lễ hay sự kiện. Sau một thời gian, điều này trở thành một trò đùa thường xuyên, khi những ước tính của họ luôn bị thổi phồng quá mức, ít nhất là vài chục người. Ngoài việc đùa giỡn, điều này còn khiến chúng tôi mất niềm tin vào đánh giá của họ về cách mọi thứ diễn ra với mục vụ.

Người ta rất khó tín nhiệm một người không sẵn sàng hoặc không thể đánh giá chính xác sự tăng trưởng và tác động của chức vụ mà họ đang lãnh đạo.

2. Không Nhận Ra Những Các Lĩnh Vực Cần Cải Thiện

Khi nói đến các vụ bê bối khác nhau giữa các nhà lãnh đạo hội thánh nổi tiếng một điều tôi nhận thấy là hành vi phạm tội thường có hai tầng. Tầng thứ nhất là chính bản thân vụ bê bối: sự lạm dụng, hành vi không đúng đắn, không biết bảo vệ người khác. Nhưng còn có một lỗi thứ hai, khi một hội thánh hoặc tổ chức Cơ đốc cố gắng bảo vệ chính mình bằng cách giảm nhẹ, phủ nhận hoặc nhận trách nhiệm đầy đủ về những gì đã xảy ra dưới sự quản lý của họ.

Chính vì xu hướng này mà nhiều người—bao gồm cả Cơ đốc nhân và không phải Cơ đốc nhân—đã trở nên nhạy cảm hơn nhiều đối với sự thiếu nhận thức hoặc trách nhiệm của lãnh đạo hay Hội thánh khi những quyết định của họ không mang lại kết quả như mong đợi.

Các mục sư quá hay đổ lỗi cho sự thất bại của một sáng kiến mục vụ là do sự thiếu thuộc linh trong hội chúng của họ, hoặc do văn hóa xung quanh. Điều này khiến các mục sư truyền tải một niềm tin rõ ràng rằng họ là những người không thể sai lầm và nếu một sáng kiến mục vụ không thành công như mong muốn thì đó là lỗi của người khác chứ không phải là kết quả của một quyết định thiếu khôn ngoan, thiếu thông tin hoặc đơn giản là không hiệu quả của lãnh đạo.

Có lẽ tồi tệ hơn nữa là khi các mục sư từ chối thừa nhận rằng hướng đi họ đã chọn không có hiệu quả. Họ hy vọng rằng nếu cứ tiếp tục với những gì họ đang làm, mọi chuyện sẽ khá hơn.

Sự kiên trì là cần có, và các mục sư cần luôn truyền tải một cảm giác hy vọng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ trở nên cố chấp không nhận ra những thiếu sót hay các lĩnh vực cần cải thiện. Khi các mục sư không thể thừa nhận đúng đắn thực tế về tình hình, họ sẽ mất đi uy tín.

3. Phát Biểu Như Một Chuyên Gia Trong Những Lĩnh Vực Mà Không Được Đào Tạo

Trong thời đại truyền thông xã hội, một số người cảm thấy rằng trách nhiệm của các lãnh đạo là phản hồi công khai mọi vấn đề quan trọng trong ngày – Ngay lập tức. Nhưng thực tế không phải vậy.

Khi các mục sư bỏ qua điểm này, họ có thể thấy mình đang phát biểu một cách đầy thẩm quyền về những vấn đề mà họ thiếu kiến thức, chuyên môn hoặc bằng cấp. Khi họ làm vậy, và làm điều đó thường xuyên, nó có thể cực kỳ gây hại cho uy tín của họ.

Hầu hết các mục sư không phải là chuyên gia về lý thuyết phê phán (critical theory, một lý thuyết xã hội hướng tới việc phê bình và thay đổi toàn bộ xã hội – ND), dịch tễ học, tâm lý học hay lý thuyết kinh tế. Họ không nên làm ra vẻ như vậy.

Mối quan tâm chính của một mục sư nên là sức khỏe thuộc linh và sự phát triển của Hội thánh của chính mình. Đôi khi, điều đó có nghĩa là phải phát biểu về một vấn đề đang là chủ đề phổ biến trong các cuộc trò chuyện công khai. Tuy nhiên, các mục sư sẽ làm tốt nếu luôn nhớ rằng họ chủ yếu là người chăn chiên, không phải là những nhà bình luận tin tức.

4. Hành Động Trên Mạng Khác Ngoài Đời Thực

Cùng với việc cân nhắc về các chủ đề nằm ngoài chuyên môn hoặc thẩm quyền của họ, các mục sư nên cẩn thận về cách họ tham gia vào các cuộc trò chuyện trực tuyến. Các Mục sư xử lý kém trên mạng sẽ mất uy tín ngoài đời thực.

Đôi khi, tôi đã tương tác với một mục sư hay lãnh đạo hội thánh ngoài đời mà tôi thấy họ vô cùng nhẹ nhàng, tử tế và dễ mến. Tuy nhiên, tôi lại rất bất ngờ khi theo dõi họ trên mạng xã hội và thấy cách họ cư xử trên mạng gần như điên cuồng.

Quay lại với câu hỏi, đâu mới là “thật”—người có vẻ tử tế và tỉnh táo đứng trước mặt tôi, hay là kẻ điên cuồng mà tôi thấy trên mạng? Dù họ có thể hiện mình tốt thế nào ngoài đời, tôi có xu hướng không tin tưởng vào một người mà trên mạng cư xử khác với khi gặp mặt trực tiếp.

Mặc dù họ có thể không bao giờ thể hiện điều đó, nhưng những người trong Hội Thánh của bạn có thể cảm thấy tương tự.

5. Không Sẵn Sàng “Đi Trước”

Ngay cả khi các mục sư luôn thể hiện phẩm hạnh đạo đức cả trực tuyến và ngoài đời, họ vẫn có thể thấy uy tín của mình giảm sút trong Hội thánh và cộng đồng nếu họ không sẵn sàng “đi trước”.

Các người Truyền giảng thường nói về những mục tiêu cao cả. Đó là công việc của họ. Họ kêu gọi dân sự của mình trở thành môn đồ sâu sắc hơn và sống biệt riêng. Họ đưa ra một tầm nhìn lớn lao. Họ đưa ra những lời kêu gọi mạnh mẽ.

Vì họ là con người, các Mục sư không bao giờ có thể sống hoàn hảo theo những lời mình giảng. Tuy nhiên, càng có sự chênh lệch lớn giữa những gì mục sư giảng dạy và cách họ sống, uy tín của họ càng giảm sút. Nếu khoảng cách đó đủ rộng, mọi người sẽ ngừng nghe họ hoàn toàn.

Sự lãnh đạo đến từ việc bạn sẵn sàng đi trước. Nếu bạn kêu gọi dân sự truyền giáo, bạn nên tìm cách trở thành người truyền giáo đầu tiên. Nếu bạn kêu gọi mọi người dâng hiến rộng rãi, bạn phải là một trong những người dâng hiến nhiều nhất. Nếu bạn kêu gọi mọi người phục vụ không mệt mỏi, bạn không bao giờ được lạm dụng đặc quyền của vị trí của mình để tránh làm những công việc thấp hèn.

Uy Tín Là Cái Khó Có và Dễ Mất

Uy tín có thể rất khó xây dựng và rất dễ mất đi. Tuy nhiên, hầu hết người ta đều không quá khắt khe khi đi theo sự lãnh đạo của mục sư của họ. Các mục sư luôn nỗ lực hết mình để trở thành những con người, trung tín, công chính, không bao giờ ra vẻ là điều gì đó mà họ vốn không phải, và luôn chỉ dẫn dân sự của họ đến với Chúa Giê-su sẽ xây dựng uy tín của họ theo thời gian, cho phép họ chạm đến cuộc sống của mọi người trong hội thánh và trở thành một phần trong việc biến đổi cộng đồng của mình.

Tác giả: Dale Chamberlain

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm của bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc. 

Link bài viết gốc: https://churchleaders.com/pastors/434061-pastoral-credibility.html

admin

CẦN NGHIÊM TÚC NHÌN NHẬN VẤN ĐỀ NGHIỆN ĐIỆN THOẠI

Tháng 8 11, 2025/0 Comments/in Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh, THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH /by admin

“Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích, tôi được phép làm mọi sự nhưng không làm nô lệ cho bất cứ điều gì” 1 Cô-rinh-tô 6:12

Mọi Người Đều Nghiện, Nhưng Chẳng Ai Quan Tâm

Người ta đã nói rằng trong vài năm nữa, chúng ta có thể nhìn lại những chiếc điện thoại thông minh giống như cách mà chúng ta nhìn nhận thuốc lá ngày nay. Trong một khoảng thời gian rất ngắn, thuốc lá từ một phần bình thường trong cuộc sống hàng ngày (bạn còn nhớ khu vực dành cho người hút thuốc trong các nhà hàng không?) đã trở thành thứ bị lên án gần như trên toàn cầu như là một thói xấu không lành mạnh.

Nhưng sự thay đổi không xảy ra ngay lập tức, như thể chúng ta đột nhiên phát hiện ra thuốc lá gây ung thư phổi và mọi người đều bỏ thuốc ngay ngày hôm sau. Vào năm 1964, Báo cáo của Tổng Y Chức Hoa Kỳ (U.S. Surgeon General’s Report) về Thuốc Lá và Sức Khỏe đã được công bố, chính thức chỉ ra mối liên hệ giữa việc hút thuốc và ung thư, và thu hút sự chú ý rộng rãi của công chúng về những nguy hiểm này. Nhưng bỏ thuốc lá trên diện rộng mất nhiều thập kỷ để bắt kịp với những gì mà mọi người đã biết.

Tôi nghĩ chúng ta có thể đang ở ngưỡng cửa của sự thay đổi tương tự đối với nghiện điện thoại thông minh. Mọi người đều biết chúng ta đang nghiện điện thoại, nhưng dường như, ít nhất là bây giờ, có rất ít người đủ quan tâm để làm gì đó về vấn đề này.

Nghiện Điện Thoại Thông Minh Đã Được Khoa Học Xác Nhận

Chứng nghiện điện thoại thông minh đến với chúng ta một cách lén lút.

Những thiết bị vốn hứa hẹn là “chiếc xe đạp cho tâm trí,” lại trở thành heroin cho sự tập trung của chúng ta. Khi phần cứng và phần mềm được cải tiến, toàn bộ trải nghiệm với điện thoại thông minh ngày càng trở nên gây nghiện. Dần dần, chúng ta đã chìm vào những vực sâu mờ ảo bởi hóc môn dopamine được điều khiển bởi thiết bị thông minh.

Và bản năng của chúng ta, rằng “có điều gì đó sai ở đây,” đã được xác nhận qua các nghiên cứu khoa học về việc sử dụng điện thoại thông minh và tác động của nó, đặc biệt là đối với giới trẻ.

Cuốn The Anxious Generation (2024) của Jonathan Haidt đã bắt đầu chỉ ra cho người ta thấy những nguy hiểm của điện thoại và mạng xã hội đối với trẻ em. Trong sách, Haidt đã đưa ra một lập luận vững chắc, chỉ ra mối liên hệ giữa sự gia tăng các vấn đề về sức khỏe tâm thần, thiếu ngủ, nghiện ngập và tự làm hại bản thân ở thanh thiếu niên với sự gia tăng việc sử dụng điện thoại thông minh và mạng xã hội.

“Một Tuyên Bố Chung Về Những Tác Động Tiêu Cực Của Việc Sử Dụng Điện Thoại Thông Minh Và Mạng Xã Hội Đối Với Sức Khỏe Tâm Thần Của Thanh Thiếu Niên,” được công bố gần đây, vào tháng 5 năm 2025, đã đánh giá ý kiến của các chuyên gia quốc tế về mối quan hệ giữa việc sử dụng điện thoại thông minh và mạng xã hội với các vấn đề ở giới trẻ. Và hiện nay gần như tất cả các chuyên gia đều đồng ý, với 92–97% nói rằng họ đồng tình với việc sử dụng điện thoại thông minh và mạng xã hội có liên hệ với các vấn đề chúng ta đã đề cập ở trên.

Chúng ta đang ở một thời điểm mà các vấn đề với điện thoại thông minh và mạng xã hội đối với trẻ em giờ đây không thể nào thờ ơ được nữa.

Nhưng ngay cả khi bạn đồng ý với việc giữ điện thoại xa khỏi tay trẻ em cho đến khi chúng 16 tuổi (theo khuyến nghị của Haidt), nhiều người lớn vẫn có vẻ nghĩ, “Ừ, nó không tốt cho trẻ em. Nhưng tôi là người lớn, tôi có thể xử lý được.” Nhưng suy nghĩ này cũng có vẻ là một niềm tin sẽ không tồn tại lâu sau khi xem xét kỹ lưỡng.

Chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này đối với người lớn, tuy nhiên, bạn thật sự cần một nghiên cứu sao? Tất cả chúng ta đều đùa về việc nghiện điện thoại. Nếu chúng ta thành thật với bản thân, nhiều người trong chúng ta chỉ đơn giản là không thích việc sử dụng điện thoại quá nhiều. Chúng ta biết đó là một vấn đề, nhưng không biết phải làm gì với nó. Và bây giờ chuyện đó được cảm thấy quá bình thường.

Việc Sử Dụng Điện Thoại Thông Minh Của Người Lớn

Nhiều người lớn chúng ta có thể dễ dàng đồng cảm với những lời của Catherine Price, tác giả cuốn How to Break Up with Your Phone (Cách Để Chia Tay Với Điện Thoại Của Bạn):

“Nhiều người lớn bắt đầu nhận ra, không chỉ tuổi thơ gắn liền với điện thoại là một vấn đề. Cuộc sống dựa trên điện thoại mới là vấn đề. Mặc dù trẻ em và thanh thiếu niên đang chịu ảnh hưởng tiêu cực nhất từ việc sử dụng mạng xã hội và thời gian nhìn màn hình quá nhiều, thì cha mẹ của các em — và thực tế là tất cả người lớn — cũng gặp phải vấn đề tương tự.”

Ngay cả khi chúng ta thừa nhận rằng thời gian sử dụng màn hình và thiết bị của mình chưa thực sự tối ưu, chúng ta vẫn nghĩ rằng “nhưng cuộc sống ngày nay nó thế, phải không? Tại sao phải chống lại nó? Chẳng phải đây là bình thường sao?”

Ẩn Đằng Sau Sự “Bình Thường”

Giống như thuốc lá đã từng là một phần bình thường, rồi đột ngột nó không còn bình thường nữa; nghiện điện thoại thông minh gần như đã trở thành một thói quen phổ biến. Nhưng “bình thường” không đồng nghĩa với sự khôn ngoan.

Là những Cơ Đốc Nhân cố gắng quản lý cuộc sống một cách trung thành để tôn vinh Chúa, định nghĩa về sự bình thường của chúng ta nên khác biệt với thế giới.

• Có phải việc chúng ta đọc ít đi là bình thường?

• Có phải thời gian tĩnh nguyện của chúng ta ít đi là bình thường?

• Có phải việc hiếu khách, học Kinh Thánh, cầu nguyện, và các mối quan hệ thân thiết đang bị gạt đi vì mải lướt điện thoại vô tận là bình thường?

Tôi từ chối chấp nhận định nghĩa đó về sự bình thường.

Sự Khác Biệt Giữa Không Thể Và Bất Tiện

Có thể cảm thấy gần như không thể hoạt động trong thế giới ngày nay mà không có điện thoại thông minh. Qua nhiều năm, tôi đã kể về những trải nghiệm không may của mình khi thử dùng điện thoại cơ bản và các phương pháp khác nhau để hạn chế việc sử dụng thiết bị. Vì vậy, tôi thừa nhận rằng đúng là mọi thứ từ việc lái xe đến việc đi ăn bên ngoài đã trở nên khó khăn hơn khi không có điện thoại. Nhưng điều đó không phải là không thể.

Từ bỏ điện thoại không phải là không thể; chỉ là bất tiện mà thôi.

Sự thật là, hoàn toàn có thể không bị nghiện điện thoại. Bạn cũng có thể không sở hữu một chiếc điện thoại thông minh nếu bạn thực sự muốn. Nhưng điều đó đòi hỏi phải chấp nhận một thứ mà chúng ta đã học để căm ghét: “Sự Bất Tiện”.

Chúng ta đã quen với sự thoải mái và tiện lợi. Khi bạn có điều hòa, thật khó để tưởng tượng cuộc sống mà không có nó. Và khi bạn có một chiếc điện thoại cho phép bạn tra cứu bất cứ điều gì ngay lập tức, cập nhật tin tức mới nhất, và xua tan nỗi buồn chỉ bằng một cái vuốt nhẹ, thật khó để quay lại ngày không có nó.

Nhưng điều đó không phải là không thể.

Và tôi không chỉ đang nói lý thuyết điều này. Tôi đã ngừng sử dụng điện thoại thông minh gần một năm nay. Và thỉnh thoảng nó khá bất tiện (mặc dù không khó như tôi đã tưởng). Nhưng nó không phải là không thể.

Tôi đã tìm ra cách để chỉ đường, truy cập thực đơn ở các nhà hàng mà không cần đọc mã QR, và thậm chí chụp ảnh mà không có điện thoại. Đó là ba câu hỏi phổ biến nhất mà tôi nghe khi mọi người biết tôi không dùng điện thoại thông minh. Nhưng chẳng có gì trong số đó là điều không thể vượt qua, phải không? Tôi có thể đặt GPS trong xe, tôi có thể yêu cầu phục vụ thực đơn giấy, và tôi có thể mang theo máy ảnh khi đi chơi.

Có phải ít tiện lợi hơn không? Đúng. Có phải là không thể không? Không.

Nhưng Điều Đó Liệu Nó Có Xứng Đáng?

Câu hỏi thực sự là “Nó có xứng đáng không?”

Tôi không thích sự bất tiện. Không ai thích cả. Nhưng luận điểm của tôi ở đây là chúng ta nên sẵn sàng chấp nhận sự bất tiện có chủ ý vào những lúc chúng ta tin rằng lợi ích lâu dài xứng đáng với sự phiền toái trước mắt.

Hạn chế thời gian sử dụng màn hình là một sự hy sinh, vì vậy bạn phải tin rằng nó xứng đáng. Tôi nghĩ về nó tương tự như cách tôi nghĩ về việc tập thể dục. Tôi không đặc biệt thích việc tập luyện. Nhưng tôi vung tạ ba ngày một tuần vì sức khỏe lâu dài của tôi xứng đáng với sự bất tiện hiện tại.

Chúa của chúng ta kêu gọi chúng ta trở thành của lễ sống. Chúng ta làm điều này bằng cách không để cuộc sống và tâm trí của mình bị đồng hóa theo khuôn mẫu của thế giới này. Chúng ta nên trông khác biệt. Cách chúng ta sử dụng thiết bị của mình cũng nên khác biệt so với thế giới. Và đôi khi điều đó sẽ đòi hỏi sự hy sinh.

“Vậy thưa anh em, bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, tôi nài xin anh em dang thân thể mình làm sinh thế sống, thánh khiết và đẹp lòng Đức Chúa Trời, đó là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. Đừng khuân rập theo đời này, nhưng phải được biến hóa bởi sự đổi mới của tâm trí mình, để phân biệt đâu là ý muốn tốt đẹp, vừa lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời.”

Rô-ma 12:1-2

Tôi không thích việc tôi không thể làm tất cả những việc tôi đã từng làm nhanh chóng hoặc thuận tiện như tôi đã từng làm khi tôi luôn mang theo điện thoại, nhưng bạn có biết tôi thích gì không?

• Tôi thích rằng tôi đã có lại tâm trí mình.

• Tôi thích rằng tôi đọc sách nhiều hơn.

• Tôi thích rằng tôi đang chứng kiến con cái lớn lên qua đôi mắt của chính mình. • Tôi thích rằng cảm giác thèm khát giao tiếp với mọi người không khiến tôi chạy đến màn hình mà là một tách cà phê, trực tiếp.

• Tôi thích rằng tôi thực sự không thể với tay lấy điện thoại ngay khi thức dậy vì nó không có ở đó, và thay vào đó, tôi chọn đọc Kinh Thánh thay vì lướt điện thoại.

Tôi thích sự tiện lợi. Và tôi ngợi khen Chúa vì những phước lành của sự tiện lợi. Nhưng khi sự tiện lợi trở thành một thói quen xấu, chúng ta phải chấp nhận sự bất tiện có chủ ý.

Thử Thách: Chọn Sự Bất Tiện Có Chủ Ý

Không phải ai cũng cần phải đi đến con đường cực đoan là từ bỏ điện thoại. Một số người thực sự không thể làm vậy vì công việc hoặc lý do nào đó.

Nhưng nếu Thánh Linh đã cáo trách bạn về việc sử dụng điện thoại của mình, đừng coi nó là “bình thường,” hay nghĩ rằng thay đổi là không thể. Hãy làm gì đó về điều đó. Khi chúng ta nhận ra rằng các thiết bị của mình đang trở thành một trở ngại đối với việc sống cuộc sống Cơ Đốc đầy đủ mà Chúa đã thiết kế cho chúng ta, thì một sự thay đổi là cần thiết. Một sự hy sinh cần phải được thực hiện.

Tại học viện, Jessica đã dẫn đầu một thử thách thanh lọc kỹ thuật số trong tháng với các cuộc kiểm tra trách nhiệm giải trình cho các thành viên. Nhưng các quy tắc thực sự rất đơn giản. Bạn có thể làm điều gì đó tương tự như thế này cho chính mình.

1. Chọn một điều gì đó bạn sẽ kiêng khem (ứng dụng mạng xã hội, điện thoại vào một số ngày nhất định, hoặc không sử dụng điện thoại thông minh nữa).

2. Quyết định khoảng thời gian (một tuần? Hai tuần? Một tháng?)

3. Xác định bạn sẽ thay thế những hoạt động đó bằng gì khi cơn thèm khát xuất hiện (hãy hoãn lại, thay vào đó. Xem Ê-phê-sô 4:22-24).

Sau đó, khi bạn đã thử nghiệm với sự bất tiện có chủ ý, bạn có thể đánh giá và quyết định xem liệu có cần thay đổi vĩnh viễn hay không.

Tôi biết đối với tôi, những biện pháp cực đoan mà tôi đã thực hiện khi từ bỏ mạng xã hội và điện thoại thông minh chỉ được quyết định sau khi tôi thực hiện các thí nghiệm như thế này. Bạn có thể sẽ ngạc nhiên về những gì bạn học được khi nghỉ ngơi một chút khỏi thiết bị của mình.

Người nghiện không biết mình là nghiện cho đến khi anh ta thử bỏ.

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc 

Link bài viết gốc: Taking Phone Addiction Seriously – Redeeming Productivity/

admin

KHÔNG CHỊU ĂN NĂN – NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG CUỘC HÔN NHÂN LẠNH LẼO

Tháng 8 2, 2025/1 Comment/in Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh, THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH /by admin

 

Bất cứ khi nào có người hỏi về vợ tôi – dù ở nơi làm việc, ở trường học hay bất kỳ đâu – và những gì cô ấy làm, tôi luôn hào hứng trả lời: “Ồ, cô ấy là một nhà tâm vấn; một nhà tâm vấn theo quan điểm Kinh Thánh.” Tôi cố gắng làm rõ quan điểm này – để đảm bảo không ai bị nhầm lẫn hoặc hiểu sai – rằng tất cả công việc tư vấn của cô ấy đều được thực hiện trong khuôn khổ thế giới quan Kinh Thánh rõ ràng.

Bắt đầu cuộc trò chuyện theo cách này thường giúp tôi dễ dàng chuyển sang các chủ đề tiếp theo với người kia về Đức Chúa Trời, Kinh Thánh và Tin Lành. Họ có thể không thích điều đó (thật ra người ta hiếm khi thích), nhưng ít nhất sự rõ ràng này tạo nền tảng cho phần còn lại của cuộc đối thoại. Bằng cách nhấn mạnh trọng tâm của một nhà tâm vấn Kinh Thánh về tội lỗi, sự cần thiết phải ăn năn và hy vọng của Phúc Âm qua đức tin vào Chúa Giê-su Christ, cuộc trò chuyện sẽ tự nhiên chuyển trọng tâm về trách nhiệm cá nhân, nhấn mạnh nhu cầu hòa giải của chính họ với Chúa.

Tuy nhiên, như bạn có thể tưởng tượng, người ta có xu hướng đánh trống lảng hoặc giả vờ có những cuộc hẹn bí ẩn nào đó – “Ồ thời gian trôi nhanh quá, tôi có việc phải đi đây!” – vào đúng lúc những từ như “tội lỗi” và “hối cải” xuất hiện trong cuộc trò chuyện. Thật vậy, người ta rất phấn khích khi nghe vợ tôi là một nhà tâm lý tư vấn vì họ háo hức chia sẻ về bản thân và cảm xúc của mình, nhưng lại vội rút lui ngay khi trọng tâm không còn là cảm xúc của họ mà là tội lỗi của chính họ. Người ta thích kể về cuộc sống của họ trong những cuộc trò chuyện như vậy, nhưng rồi đóng cửa tất cả các cuộc đối thoại vì họ ghét chính ý tưởng rằng một ngày nào đó họ sẽ phải trả lời về cách sống của mình trước Chúa Giê-su Christ.

Elaina, vợ tôi, đã tham gia vào lĩnh vực tư vấn được nhiều năm, mặc dù chỉ trong năm qua cô ấy mới bắt đầu tư vấn một cách chính thức. Tuy nhiên, không mất nhiều thời gian để nhận ra rằng, với tư cách là một phụ nữ chỉ tư vấn cho những phụ nữ khác, phần lớn các buổi tư vấn của cô ấy sẽ là với những phụ nữ đang gặp khó khăn trong hôn nhân.

Những xung đột trong hôn nhân này xảy ra vì vô số lý do và việc giải quyết thường rất phức tạp – xét cho cùng, chúng ta là những tội nhân ích kỷ, có khả năng vô hạn để hủy diệt bản thân và người khác nếu không có ân điển của Đức Chúa Trời. Nhưng, gạt sang một bên tất cả những sắc thái này, hãy cho phép tôi nói một cách hoàn toàn rõ ràng: hầu hết các vấn đề hôn nhân này, thoạt đầu có vẻ phức tạp, nhưng trên thực tế đơn giản hơn nhiều so với những gì chúng ta muốn thừa nhận. Cụ thể là, tất cả thực sự đều do sự thất bại và không chịu ăn năn.

Hôn nhân trở nên nguội lạnh không phải vì vợ chồng bắt đầu mất tình yêu mà vì họ bắt đầu mất lòng hối cải. Sự thất bại trong việc ăn năn chính là sự thất bại trong việc yêu thương. Và sự thất bại trong việc yêu thương, chắc bạn đã đoán được, gắn liền với sự thất bại trong việc ăn năn tội lỗi trong hôn nhân của bạn.

Sự sa sút do tội lỗi trong nhiều năm và tác động gây cứng lòng của sự cay đắng bị bỏ qua và không được ăn năn khiến nhiều người chồng và người vợ trở nên lạnh lùng và nhẫn tâm, không thể và không sẵn sàng quay lưng lại với tội lỗi. Họ không sẵn sàng hướng về một Đấng Cứu Rỗi hằng sống và yêu thương trong Đấng Christ, Đấng sẵn sàng tha thứ cho những người từ bỏ tội lỗi và bám vào Ngài để được chữa lành mãi mãi.

Nếu bạn thấy mình không còn tình yêu, chắc chắn thực tế là bạn đã không chịu ăn năn từ trước đó. Trái ngược với niềm tin phổ biến, ngay cả niềm tin phổ biến của người Tin Lành, tình yêu là một sự lựa chọn – một hành động của ý chí gạt bỏ bản thân, vì yêu thích vinh quang của Đức Chúa Trời và lợi ích của người khác. Cảm xúc đến rồi đi, nhưng tình yêu không thể ra đi. Tình yêu phải ở lại, nó được truyền lệnh phải ở lại: “Hỡi những người vợ, hãy vâng phục chồng mình, như vâng phục Chúa… Hỡi những người chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu hội thánh và phó mình cho nó” (Ê-phê-sô 5:22, 25).

Theo ngôn ngữ của C.S. Lewis: “Tình yêu, khác với ‘phải lòng,’ không chỉ đơn thuần là một cảm giác. Đó là một sự hiệp nhất sâu sắc, được duy trì bởi ý chí và được củng cố bởi thói quen một cách có chủ đích.”

Tương tự như vậy, ăn năn cũng là một sự lựa chọn tích cực của ý chí. Có nhiều lúc yêu thương cảm thấy thật dễ dàng. Ngược lại, chúng ta không bao giờ cảm thấy muốn ăn năn. Nếu chúng ta chờ đợi cảm xúc phù hợp rồi mới ăn năn tội lỗi trong hôn nhân, thì trong lúc chúng ta chống lại Đức Chúa Trời và người phối ngẫu, tôi e rằng chúng ta sẽ không bao giờ được thúc đẩy đủ để làm điều đó.

Đó là lý do tại sao sự ăn năn, trước hết và trên hết, giống như tình yêu, là một hành động vâng lời có chủ ý đối với Đức Chúa Trời chứ không phải là một hành động chỉ được thực hiện khi những cảm xúc thích hợp hiện diện như một loại “nhiên liệu cảm xúc” nào đó trong lòng chúng ta. Ăn năn chính là yêu thương. Hãy giải quyết mâu thuẫn với Đấng Toàn Năng và với nhau ngay lập tức. Đơn giản như vậy!

Anh chị em thân mến, thực tế rằng cả tình yêu thương và sự ăn năn không bị nô lệ cho cảm xúc là một lẽ thật giải phóng linh hồn một cách kỳ diệu và vô hạn. Nếu bạn ở trong Đấng Christ – nếu bạn đã tin vào danh Ngài để được tha thứ tội lỗi và đã đặt hy vọng vào Ngài, nếu Thánh Linh của Ngài đã ngự trong bạn – thì “Vậy, anh em cũng phải kể mình đã chết đối với tội lỗi và đang sống cho Đức Chúa Trời trong Đấng Christ Giê-su” (Rô-ma 6:11).

Là con trai hay con gái của Đức Chúa Trời hằng sống, chúng ta không còn bị ràng buộc để lang thang trong vùng hoang dã của sự bốc đồng, thờ ơ và chủ nghĩa cảm xúc chết chóc, mà được tự do yêu mến Đức Chúa Trời và những người khác từ một trái tim đã được đổi mới và tái tạo. Chỉ cần làm điều đúng, bất kể bạn cảm thấy thế nào, “vì Đức Chúa Trời đang hành động trong anh em, để anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt của Ngài” (Phi-líp 2:13).

Khi Elaina và tôi sắp kỷ niệm lần thứ ba ngày cưới vào tuần tới, tôi thấy mình bị choáng ngợp bởi lòng nhân từ và sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với chúng tôi trong tất cả những gì cô ấy và tôi đã cùng nhau thay đổi với tư cách là vợ chồng. Tôi cảm tạ và tôn vinh Chúa vì người bạn đời chung thủy mà Ngài đã ban cho tôi nơi Elaina, và vì Ngài đã là người bạn sắc son đối với cả hai chúng tôi.

Hôn nhân với cô ấy thật tự nhiên, rất ngọt ngào, và tốt hơn nhiều so với những gì một trong hai chúng tôi có thể tự mình yêu cầu, tưởng tượng hoặc nghĩ ra. Tôi ngợi khen Chúa vì cô ấy rất dễ yêu thương và vui vẻ. Và khi những bất đồng hoặc xung đột nảy sinh giữa chúng tôi, như thường xảy ra ngay cả trong những cuộc hôn nhân tốt đẹp nhất, hoặc khi tầm nhìn của chúng tôi bị mờ mịt bởi tội lỗi, tôi biết ơn về những con đường cũ mòn của tình yêu thương và sự hối cải mà Chúa đã dẫn chúng tôi đi qua nhiều lần.

Là người chồng và người vợ, chúng ta có thể không phải lúc nào cũng cảm thấy muốn yêu thương, ăn năn hoặc cầu xin sự tha thứ, nhưng đây là một bí mật nhỏ: chúng ta càng đưa những lẽ thật này vào thực hành, chúng sẽ càng trở nên tự nhiên và chân thành hơn. Và trước khi bạn biết điều đó, những cảm xúc đúng đắn và tin kính sẽ nhanh chóng theo sau khi những thói quen đúng đắn bén rễ.

Qua việc liên tục cởi bỏ cái tôi và mặc lấy Đấng Christ, bạn sẽ thực sự trở nên giống Ngài hơn. Trong thời gian chờ đợi, hãy tiếp tục vâng lời lẽ thật và yêu thương nhau sâu sắc từ một tấm lòng trong sạch (1 Phi-e-rơ 1:22). Hãy nhanh chóng ăn năn và nhanh chóng cầu xin sự tha thứ khi anh chị em không đạt được sự kêu gọi mà Đấng Christ đã kêu gọi chúng ta làm đại sứ của Cuộc Hôn Nhân Thiên Thượng mà một ngày nào đó tất cả chúng ta sẽ tham gia.

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc. 

Link gốc bài viết: Falling Out of Repentance

admin

7 Bài Học Của Một Người Từng Làm Mục Sư Giới Trẻ

Tháng 7 25, 2025/0 Comments/in THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH, Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh /by admin

Tôi vừa tốt nghiệp trường kinh thánh và bước vào chức vụ đầu tiên trong đời. Tôi và vợ xếp hành lý vào chiếc xe van để bắt đầu một chặng đường dài từ một thành phố nhỏ nằm phía bắc Los Angeles đến một thị trấn phía tây Toronto. Trong bảy năm, tôi có vinh dự đảm nhiệm mục vụ giới trẻ của hội thánh Báp-tít Maple Avenue. Sau đó, vào tháng 10 năm 2023, tôi trở thành mục sư quản nhiệm. Trong bài viết này, tôi muốn hồi tưởng lại bảy bài học mà tôi đã kinh nghiệm trong suốt bảy năm trong chức vụ mục sư giới trẻ, nhằm khích lệ những ai đang được kêu gọi để cưu mang cho thế hệ kế cận.

Thứ nhất, hãy tin cậy vào lời Chúa

Khi nói về các phương tiện ân điển trong chức vụ thanh thiếu niên, tôi đặc biệt muốn tập trung vào việc dạy Kinh Thánh. Việc này có thể không hào nhoáng hay nổi bật, nhưng theo nghĩa tốt nhất, nó thực sự hiệu quả. Việc của bạn là đứng lên và dạy Kinh Thánh, tuần này qua tuần khác. Tất nhiên cách thức sẽ khác so với một buổi nhóm Chủ Nhật – ví dụ, ít trang trọng hơn, và có thể có phải sử dụng những minh họa (cho hợp với giới trẻ) – nhưng nội dung của bài giảng không nên quá khác biệt. Tôi tin rằng việc sử dụng đủ loại chiêu trò và các câu chuyện bên lề để thu hút các bạn trẻ trong nhóm thanh thiếu niên đang làm hại họ, đặc biệt khi những điều đó trở nên quá lạ lẫm và khác biệt so với các buổi nhóm chung của hội thánh vào sáng Chủ Nhật. Bởi vì điều này có thể khiến các em nghĩ rằng bài giảng Chủ Nhật của mục sư quản nhiệm nhàm chán, tẻ nhạt, hoặc không hấp dẫn, không thú vị bằng một mục sư thanh thiếu niên suốt buổi chỉ chiếu phim, làm video TikTok với những meme hài hước. Điều này không có nghĩa là bạn không thể sử dụng minh họa hay nghĩ ra những cách sáng tạo để truyền tải thông điệp, nhưng hỡi anh em mục sư, hãy tin cậy vào quyền năng của Lời Chúa để làm công việc của Ngài một cách lâu dài.

Thứ hai, hội thánh phải là trọng tâm

Rồi các thành viên sẽ lần lượt rời khỏi nhóm thanh thiếu niên, nhưng nếu họ là người theo Chúa Giê-su, họ sẽ không bao giờ được rời bỏ hội thánh địa phương. Hơn nữa, thanh thiếu niên Cơ Đốc không cần phải đợi đến khi tốt nghiệp trung học mới tham gia vào đời sống hội thánh – các em có thể tham dự các buổi thờ phượng Chủ Nhật, được báp-têm và dự Tiệc Thánh của Chúa, tham dự các buổi nhóm cầu nguyện, và phục vụ một cách dạn dĩ trong thân thể Đấng Christ. Hãy giúp họ được kết nối sâu sắc vào đời sống hội thánh ngay hôm nay. Ví dụ, hãy đề xuất tên những thanh thiếu niên trưởng thành và có tinh thần phục vụ để tình nguyện phục vụ trong ban thiếu nhi. Trong việc dạy dỗ và trò chuyện, hãy liên kết ý tưởng về việc trở thành một Cơ Đốc nhân với việc là thành viên của một hội thánh. Hãy cho họ thấy rằng đời sống Cơ Đốc không thể thiếu hội thánh.

Thứ ba, vui chơi không có nghĩa là thế gian

Tại nhóm thanh thiếu niên của chúng tôi, chúng tôi luôn chơi một trò chơi tập thể vào đầu mỗi buổi tối. Trong các buổi cắm trại, chúng tôi có các trò chơi “phá băng” trước các buổi học và các trò chơi lớn như một phần trong chương trình. Đôi khi, chúng tôi còn cho phép nghỉ buổi dạy Kinh Thánh và nhóm nhỏ để có một đêm giao lưu. Mặc dù tôi nghĩ việc ưu tiên dạy Kinh Thánh trong môn đồ hóa là quan trọng, nhưng những trò chơi được sắp xếp hợp lý có thể là một cách tuyệt vời để phá vỡ rào cản trong mối quan hệ và xây dựng cộng đồng trong nhóm. Sự thật là, khi những người trẻ tuổi tụ họp lại, họ thích trò chuyện với nhau, chơi trò chơi và vui vẻ. Thật tốt khi các mục sư và lãnh đạo thanh thiếu niên có thể tạo không gian và chương trình để các bạn trẻ tận hưởng những điều này một cách lành mạnh và tôn vinh Chúa, ngay cả khi đó không phải là mục tiêu cuối cùng của chức vụ.

Thứ tư, bạn không phải là bạn thân nhất, mà là mục sư của các em

Rốt cuộc thì, một mục sư giới trẻ phải là một mục sư của những người trẻ tuổi. Dù có giữ chức vụ trưởng lão trong hội thánh hay không, một mục sư giới trẻ cần tận tâm với sự cầu nguyện và chức vụ giảng dạy (Công Vụ Các Sứ Đồ 6:4). Bạn cần truyền giảng cho những thanh thiếu niên chưa tin và môn đồ hóa những ai đã tin Chúa, cũng như chăm sóc những người có thể đang lạc lối hoặc bị tổn thương. Nếu bạn có cá tính thú vị, trẻ trung, và hài hước, tôi chắc chắn những đặc điểm đó sẽ giúp bạn kết nối với thanh thiếu niên. Nhưng đó không phải là những phẩm chất làm nên một mục sư giới trẻ. Những phẩm chất quan trọng nhất để chức vụ được hiệu quả là lòng tin kính, tình yêu thương, sự khiêm nhường, và sự quan tâm chân thành đến mọi người. Vì vậy, đừng lo lắng nếu bạn không phải là người hài hước nhất hay không có cá tính lôi cuốn nhất; Đức Chúa Trời sẽ sử dụng bạn để tác động sâu sắc đến đời sống của những người trẻ nếu bạn theo đuổi sự tin kính, yêu thương họ, cầu nguyện cho họ, dành thời gian cho họ, và dạy họ Kinh Thánh.

Thứ năm, hãy chủ động

Ít nhất theo kinh nghiệm của tôi, tôi nhận thấy rằng mình là người khởi xướng hầu hết các buổi gặp gỡ và bữa ăn với các em học sinh. Hiếm khi có một bạn thanh thiếu niên nào chủ động hẹn gặp tôi. Điều này cũng đúng khi gặp gỡ các phụ huynh. Hãy chủ động. Bạn sẽ cần phải có chủ ý sắp xếp các cuộc gặp với thanh thiếu niên trước thời hạn, vì bạn phải phối hợp nhiều lịch trình, việc đi lại, v.v. Dưới đây là một vài lời khuyên ngẫu nhiên khác để kết nối với thanh thiếu niên: Hãy giữ kết nối với phụ huynh để đảm bảo trách nhiệm giải trình. Đừng gặp riêng người khác giới. Đừng đánh giá thấp những gì bạn có thể đạt được trong các buổi nhóm thanh thiếu niên được lên lịch thường xuyên: hãy đến sớm, về muộn và có chủ ý trò chuyện sâu với cả thanh thiếu niên lẫn các lãnh đạo.

Thứ sáu, hãy học cách quản lý

Nếu bạn là mục sư giới trẻ, một phần công việc của bạn là chơi trò chơi, ăn thật nhiều pizza và dành nhiều thời gian với thanh thiếu niên. Nhưng công việc của bạn còn hơn thế nữa. Bạn được hội thánh biệt riêng để dẫn dắt giới trẻ và quản lý nhiều đầu việc khác nhau, bao gồm lập kế hoạch sự kiện, đặt địa điểm, quản lý đăng ký, lên lịch các ngày, gửi email, thanh toán hóa đơn, dẫn dắt các cuộc họp, phân công nhiệm vụ và nhiều nhiệm vụ ít thú vị hơn khác. Nếu tôi phải đoán điều một phụ huynh quan tâm về mục vụ giới trẻ, thì đó là ba điều: 1. sự an toàn của con cái họ; 2. sự tăng trưởng thuộc linh; và 3. năng lực quản lý của mục sư. Nếu quản lý không phải là thế mạnh của bạn, hãy nhờ người khác giúp bạn trong lĩnh vực này. Hãy tìm một người trong đội ngũ nhân sự của hội thánh (hoặc chỉ là thành viên hội thánh) có kĩ năng tổ chức và học hỏi từ họ. Sự thật là, nhiều mục sư tin kính đã mất chức vụ chỉ vì làm không tốt khâu quản lý và lãnh đạo.

Thứ bảy, đây là công việc tuyệt vời nhất thế giới

Cho đến thời điểm hiện tại, tôi rất yêu thích vai trò mục sư quản nhiệm hiện tại của mình trong hội thánh, nhưng có một điều gì đó đặc biệt ngọt ngào khi làm một mục sư thanh thiếu niên. Bạn được hội thánh trả lương để kết nối với thanh thiếu niên, xây dựng mối quan hệ với họ và dạy họ Kinh Thánh. Bạn có thể sử dụng sự sáng tạo của mình để lên kế hoạch các sự kiện “bùng nổ” và, khi bạn cảm thấy kém sáng tạo, bạn luôn có thể đặt một đêm chơi bắn súng sơn hoặc công viên giải trí. Bạn có lẽ sẽ ăn nhiều pizza hơn mức cần thiết, và có lẽ làm những điều ngớ ngẩn và đáng xấu hổ mà bạn sẽ không làm trong hoàn cảnh khác. Nhưng hỡi các mục sư giới trẻ, bạn đang có vinh hạnh được dành một phần đời mình để dốc đổ tin lành vào thế hệ kế cận! Bạn có thể sẽ không thấy trọn vẹn thành quả lao động của mình trong một thập kỷ nữa; dù vậy, hãy trung tín gieo hạt giống và dâng mình cho công việc. Như cách Phao-lô đã khuyên hội thánh Ga-la-ti, tôi cũng khuyên bạn: “Chớ mệt mỏi trong khi làm việc thiện, vì nếu chúng ta không nản lòng thì đến mùa chúng ta sẽ gặt.” (Ga-la-ti 6:9).

Tác giả: Yuta Seki – mục sư quản nhiệm của hội thánh Báp-tít Maple Avenue

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc 

Link bài viết gốc: 7 Lessons from a Former Youth Pastor — Youth Pastor Theologian

admin

TẠM BIỆT MỤC SƯ JOHN MACARTHUR, NGƯỜI ĐÃ GIẢI THÍCH KINH THÁNH CHO HÀNG TRIỆU NGƯỜI

Tháng 7 16, 2025/0 Comments/in NGƯỜI GIẢNG VÀ VIỆC GIẢNG LUẬN, Người Giảng Và Việc Giảng Luận /by admin

Vị mục sư người Nam California mong muốn soi sáng Kinh Thánh bằng chính Kinh Thánh và phân tách Cơ Đốc nhân thật khỏi Cơ Đốc nhân giả.

Mục sư John F. MacArthur Jr., một nhà thuyết giảng sâu sắc, người đã dạy Lời Chúa cho hàng triệu người qua những bài giảng thu âm, chương trình phát thanh, bình luận Kinh Thánh và cuốn giải kinh bán chạy nhất, đã an nghỉ vào thứ Hai, hưởng thọ 86 tuổi.

MacArthur thường nói rằng dấu ấn quan trọng nhất trong chức vụ của ông là việc giải thích Kinh Thánh bằng chính Kinh Thánh, không làm xáo trộn các bài giảng bằng những câu chuyện cá nhân, bình luận về thời sự hay những lời kêu gọi cảm xúc, mà chỉ tập trung truyền đạt những chân lý vượt thời gian. Vị mục sư kỳ cựu của Hội Thánh Grace Community này tin rằng một bài giảng tốt thì phải giữ nguyên giá trị sau 50 năm được rao giảng.

MacArthur từng chia sẻ: “Bài giảng ấy không nên mang dấu ấn của bất kỳ sự kiện văn hóa hay cá nhân nào. Nó không phải về tôi. Và nó không chỉ cần vượt qua thời gian mà còn vượt qua mọi nền văn hóa.”

Năm 1997, ông xuất bản cuốn “Học Kinh Thánh cùng MacArthur” với 20.000 chú thích cho từng câu Kinh Thánh, cùng với mục lục các giáo lý quan trọng, lời giới thiệu cho mỗi sách trong Kinh Thánh và các kế hoạch đọc Kinh Thánh gợi ý. Cuốn sách đã bán được 2 triệu bản chỉ trong 22 năm.

Sách Chú Giải Tân Ước của ông – gồm 34 tập do Nhà Xuất Bản Moody phát hành trong suốt 31 năm – cũng bán được hơn 1 triệu bản. Jerry Jenkins, tác giả “Left Behind” (Bị Bỏ Lại) và là cựu biên tập viên của Moody, người đầu tiên đề xuất ý tưởng về bộ bình luận của MacArthur, nói với tờ Christianity Today: “Ông ấy là anh cả của những nhà thuyết giảng giải kinh”. Một người giải kinh xuất sắc. Ông ấy giảng những bài 40 phút mà lúc nào nghe cũng như chỉ 10 phút.”

Tuy nhiên, MacArthur cũng thường xuyên gây tranh cãi, ông đã có những va chạm với các nhà truyền giáo Tin Lành khác khi bất đồng quan điểm về các ân tứ của Đức Thánh Linh, vai trò giới tính theo Kinh Thánh và những gì cần thiết cho sự cứu rỗi.

Thỉnh thoảng ông thừa nhận rằng những cuộc xung đột này nên được xử lý một cách khiêm nhường hơn. Chia sẻ về một bài giảng của mình, ông nói: “Lẽ ra tôi nên xuất hiện giống một con chiên hơn là một con sư tử.” Nhưng MacArthur cũng tin rằng việc lên án những Cơ Đốc nhân không phải là Cơ Đốc nhân thật là điều thiết yếu – và đây là dấu ấn quan trọng thứ hai trong chức vụ của ông.

Nhiều người theo dõi MacArthur đã được truyền cảm hứng bởi sự kiên định của ông. Trang tin châm biếm Babylon Bee thường ca ngợi MacArthur như một chiến binh chiến thắng trong những cuộc xung đột phi lý. Nữ nhà báo Cơ Đốc Megan Basham đã ca ngợi lòng dũng cảm của ông.

Bà viết trên nền tảng mạng xã hội X: “MacArthur… luôn kiên quyết từ chối tham gia vào những trào lưu nhất thời. Và chính sự từ chối đó đã mang lại cho chức vụ của ông sức ảnh hưởng bền vững trên thế hệ trẻ. Tôi mãi mãi biết ơn những ảnh hưởng tích cực từ sự dạy dỗ của ông trên cuộc đời tôi.”

MacArthur sinh ngày 19 tháng 6 năm 1939, là con trai của bà Irene Dockendorf MacArthur và ông John F. MacArthur Sr. Ông là con, cháu, chắt và chút của các nhà giảng đạo và truyền giáo Tin Lành, khởi nguồn từ Canada và Scotland.

Cha ông là một mục sư Báp-tít và là nhà truyền giáo lưu động, người đã khởi xướng một mục vụ liên quan đến các ngôi sao điện ảnh, bao gồm diễn viên Roy Rogers và Dale Evans, ở Nam California vào đầu những năm 1940. Ông cũng tổ chức một chương trình phát thanh mang tên “Tiếng Nói Đồi Sọ”, có ảnh hưởng lớn đến sự cải đạo của John M. Perkins, người sau này trở thành một nhà ủng hộ mạnh mẽ cho sự hòa giải chủng tộc trong các cộng đồng Tin Lành.

MacArthur kể lại rằng ông bắt đầu bắt chước cha mình từ năm năm hay sáu tuổi, đứng trên một chiếc hộp trong sân sau để giảng đạo cho bạn bè hàng xóm và ba cô em gái của mình: Jeanette, Julie và Jane.

MacArthur nói: “Tôi chưa bao giờ nhớ có lúc nào mà tôi không tin phúc âm. Tôi là một trong những đứa trẻ không bao giờ nổi loạn và luôn tin kính. Vì vậy, khi Đức Chúa Trời thực hiện công việc cứu rỗi trong lòng tôi, tôi không hề nhận ra điều đó.”

Khi lớn hơn, MacArthur quan tâm đến thể thao hơn là giảng đạo. Ông muốn chơi bóng bầu dục ở đại học, nhưng cha ông kiên quyết bắt ông vào Đại học Bob Jones, nơi không có đội bóng nào vào thời điểm đó. Thay vì chơi bóng, MacArthur được kết nạp vào đội truyền giảng đường phố.

Sau này kể lại, ông cho biết mình đã cảm thấy “hơi khó chịu” ở Bob Jones. Nhưng một vụ tai nạn xe hơi đã thuyết phục ông rằng ông cần phải hoàn toàn quy phục Chúa.

Như ông đã kể đi kể lại trong các bài giảng nhiều năm sau đó, lúc ông đang lái xe xuyên quốc gia trong một chuyến truyền giảng cùng năm người trẻ khác sau năm đầu đại học. Người lái xe cố vượt một chiếc xe khác trên đường cao tốc Alabama và mất kiểm soát. Chiếc xe Ford Fairlane hai cửa bị xoay tròn, rồi lật và lăn ở tốc độ hơn 100 km một giờ, và cuối cùng nằm ngược.

MacArthur bị văng ra khỏi xe, tiếp đất bằng lưng và tiếp tục trượt dài.

Ông nhớ lại: “Lưng tôi thực sự bị trầy xước đến tận xương. Tôi đứng dậy, và tôi nhận ra mình vẫn còn sống.”

Sau khi nằm viện vài tháng, ông quyết định quay lại Bob Jones để học năm thứ hai. Ông nghĩ mình đã nhận ra tiếng gọi vào chức vụ và cảm thấy cần phải dâng hiến mọi thứ cho Đức Chúa Trời.

Ông cầu nguyện: “Lạy Chúa, giờ con có thể thấy rằng cuộc đời con thực sự nằm trong tay Ngài, và Ngài có quyền kiểm soát tuyệt đối không chỉ số phận đời đời của con mà cả thời gian con ở thế gian này.”

MacArthur có một cơ hội khác để chơi bóng bầu dục một năm sau đó, và ông đã nắm lấy, chuyển sang Đại học Los Angeles Pacific College. Sau này, ông cho biết mình đã được nhiều đội chuyên nghiệp tuyển dụng, bao gồm Washington Redskins và Cleveland Browns, nhưng hồ sơ trường học cho thấy ông không phải là một tuyển thủ xuất sắc tại trường đại học California.

Năm 1961, MacArthur quyết định rằng ông không muốn dành cuộc đời mình cho bóng bầu dục, mà sẽ bước vào chức vụ như cha của mình.

Công việc đầu tiên của ông sau khi tốt nghiệp trường Kinh Thánh là làm mục sư phụ tá dưới quyền cha mình tại một hội thánh mang tên ông nội của ông: Harry MacArthur Memorial Bible. Sau vài năm, ông quyết định tự lập và nhận lời kêu gọi từ hội thánh Grace Community, một hội thánh độc lập, không hệ phái ở khu Sun Valley của Los Angeles, California. Hai mục sư liên tiếp đã qua đời, khiến hội thánh khoảng 400 người này rất mong muốn tìm một người trẻ tuổi.

MacArthur, khi đó 29 tuổi, không mấy ấn tượng với hội thánh. Phương châm của Grace là “trong những điều cốt yếu thì phải hiệp nhất, trong những điều không cốt yếu thì cần bao dung,” (in essentials unity, in non-essentials charity) điều mà ông bác bỏ là ngớ ngẩn và đa cảm. Theo MacArthur, hội thánh này không có giáo lý thực sự; và nhiều thành viên lâu năm, thậm chí cả các lãnh đạo trong hội thánh, không phải là Cơ Đốc nhân thật.

MacArthur chia sẻ: “Có những trưởng lão chưa được cứu trong ban chấp hành đó, và những người chưa được cứu trong ban lãnh đạo hội thánh. Nhưng có đủ những người tốt, biết điều họ muốn và biết rằng họ cần được dạy Lời Chúa.”

MacArthur giảng bài giảng đầu tiên của mình vào năm 1969 về Ma-thi-ơ 7:21, “Không phải bất cứ ai nói với Ta: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’, đều được vào vương quốc thiên đàng đâu; nhưng chỉ người nào làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời mà thôi.”

Sau đó, ông bắt đầu giảng giải từng sách trong Tân Ước, bắt đầu với Tin Lành Giăng rồi chuyển sang các thư tín thứ nhất và thứ hai của Phi-e-rơ. MacArthur dành 30 giờ mỗi tuần để chuẩn bị bài giảng và giao phó hầu hết các trách nhiệm mục vụ khác cho các trưởng lão và chấp sự của hội thánh.

Hội thánh phát triển nhanh chóng. Grace xây một tòa nhà mới có sức chứa 1.000 người vào năm 1971 và mở rộng thêm vào năm 1977, tăng gấp ba lần quy mô. Đến cuối thập kỷ đó, đây trở thành hội thánh Tin Lành lớn nhất ở Los Angeles.

Nhu cầu về các bản ghi âm bài giảng của MacArthur cũng bùng nổ. Các thành viên hội thánh gửi 5.000 cuốn băng mỗi tuần, sau đó là 15.000, rồi 30.000. Đến cuối những năm 70, hơn 100.000 Cơ Đốc nhân trên khắp nước Mỹ nhận được các bài giảng đã ghi âm của MacArthur mỗi tuần. Hội thánh cũng khởi xướng một mục vụ riêng, mang tên Ân Điển Cho Bạn, để phát sóng các thông điệp của MacArthur trên đài phát thanh Cơ Đốc.

Năm 2011, Phil Johnson, giám đốc điều hành của Ân Điển Cho Bạn, phát biểu: “Chức vụ của John chứng tỏ rằng việc giảng đạo có thể vượt thời gian đến mức nào khi nó chỉ là sự giải kinh Kinh Thánh một cách lành mạnh và rõ ràng. Nếu mục đích của việc giảng đạo là đánh thức những linh hồn đã chết về mặt thuộc linh, và làm sạch, biến đổi những cuộc đời bị hủy hoại bởi tội lỗi, thì tất cả những gì thực sự quan trọng là nhà giảng đạo phải trung thành công bố Lời Chúa một cách rõ ràng, chính xác và thẳng thắn.”

Tuy nhiên, những bài giảng đó không phải không có tranh cãi. Năm 1979, MacArthur đã giảng về Tít 2 và những lời hướng dẫn của Sứ đồ Phao-lô rằng phụ nữ nên “đảm đang việc nhà” và “vâng phục chồng mình” (câu 5). Ông nói rằng phụ nữ không nên làm việc bên ngoài gia đình và các gia đình không nên yêu cầu hai nguồn thu nhập.

Các lãnh đạo hội thánh quyết định rằng đội ngũ nhân sự, không chỉ ban lãnh đạo, cần phải hoàn toàn là nam giới. Thông báo này đã gây ra sự phản đối dữ dội trong hội thánh và cộng đồng xung quanh. Một số người đã rời Grace, cáo buộc MacArthur theo chủ nghĩa Sô-vanh (trọng nam khinh nữ).

Năm sau, gia đình của một người đàn ông từng tham dự Grace đã kiện hành vi sai trái của các mục sư nơi đây – đây là vụ kiện đầu tiên ở Hoa Kỳ, theo Los Angeles Times. Các mục sư tại hội thánh đã tư vấn cho một thanh niên đang có ý định tự tử tên là Kenneth Nally, nói với anh ta rằng anh ta nên cầu nguyện nhiều hơn, đọc Kinh Thánh và nghe các bài giảng thu âm của MacArthur. Khi Nally tự sát, cha mẹ anh ta đã thuê luật sư. Họ tuyên bố rằng các mục sư tư vấn nên bị ràng buộc bởi cùng một tiêu chuẩn pháp lý như các nhà tâm lý học. Một tòa án California cuối cùng đã bác bỏ vụ kiện dựa trên Tu chính án thứ nhất.

Có lẽ cuộc tranh cãi nổi bật nhất xảy ra vào cuối những năm 1980, sau khi MacArthur xuất bản cuốn sách “Phúc Âm Theo Chúa Giê-su”. Trong sách này, ông lập luận rằng sẽ không đủ nếu tội nhân chỉ chấp nhận Đấng Christ là Cứu Chúa; những Cơ Đốc nhân thật cũng phải công nhận Chúa Giê-su là Chúa của đời sống mình.

Theo MacArthur, các nhà truyền giáo Tin Lành Mỹ đã dẫn dắt hàng triệu người đi lạc bằng “sự đảm bảo giả dối” của một “niềm tin dễ dãi.” Và nhiều người tự xưng là tín đồ của Đấng Christ với những lời chứng về việc được tái sinh, trên thực tế, đã “sai lầm nghiêm trọng về những chân lý Cơ Đốc cơ bản nhất.”

Các nhà phê bình, bao gồm một số nhà truyền giáo Tin Lành bảo thủ tại chủng viện thần học Dallas, đã buộc tội MacArthur pha trộn đức tin với việc làm, và phủ nhận sự xưng công chính bởi đức tin. Nhà thần học Charles C. Ryrie viết rằng MacArthur đã pha loãng và làm ô uế ân điển của Đức Chúa Trời. Giáo sư Tân Ước Zane Hodges còn đi xa hơn, gọi lời dạy của MacArthur là “đến từ Satan.

Tuy nhiên, nhiều nhà truyền giáo Tin Lành nổi tiếng khác đã đứng ra bảo vệ MacArthur. Họ lập luận rằng ông chỉ đang trình bày những ý tưởng Cơ Đốc truyền thống về sự ăn năn và môn đồ hóa.

Ví dụ, nhà thần học J. I. Packer đã xác định quan điểm của MacArthur với giáo lý Cải Cách rằng đức tin “là một thực tại toàn diện với khía cạnh tình cảm và ý chí cũng như trí tuệ.” Chủ tịch chủng viện Southern Baptist Theological, Albert Mohler, gọi “Phúc Âm Theo Chúa Giê-su” là “một sự hiệu chỉnh rất cần thiết cho những hiểu lầm tai hại.”

Một số những người trung lập cho rằng hai bên chỉ đang hiểu lầm nhau.

Giáo sư Tân Ước Darrell L. Bock viết: “Thường có sự khác biệt giữa những gì MacArthur nói và những gì ông ấy dường như muốn nói. Một số sự mơ hồ trong phong cách của MacArthur khiến thật khó để xác định vị trí thực sự của ông ấy.”

Tuy nhiên không hề có sự mơ hồ trong việc MacArthur chĩa mũi tấn công vào những người thuộc Phong trào Ân Tứ (charismatics). Ông nói rằng những Cơ Đốc nhân tin rằng họ được đầy dẫy quyền năng của Đức Thánh Linh đang dạy một Cơ Đốc giáo giả mạo, và “lệch lạc.” Ông gọi họ là “những người điên rồ… bị Sa-tan thúc đẩy” và lên án sự hiện diện rộng khắp của phong trào Ân Tứ trong truyền thông Cơ Đốc.

MacArthur nói: “Nó đã chiếm lĩnh, và nó đã định nghĩa lại Cơ Đốc giáo trong tâm trí mọi người, và đó là một hình thức Cơ Đốc giáo lệch lạc. Thần học của nó tệ hại, nó phi Kinh Thánh, nó lệch lạc, nó hủy hoại.”

MacArthur cũng rất rõ ràng về những Cơ Đốc nhân tin rằng phụ nữ có thể được kêu gọi để dạy Kinh Thánh, buộc tội họ phớt lờ những mệnh lệnh rõ ràng, phổ quát trong Kinh Thánh và tham gia vào “cuộc nổi loạn công khai” chống lại Lời Đức Chúa Trời. Theo MacArthur, phụ nữ không bao giờ nên có quyền phát ngôn trong hội thánh, hoặc nắm giữ các vị trí có thẩm quyền, dù trong hội thánh hay ngoài xã hội.

MacArthur đặc biệt tấn công nữ truyền đạo nổi tiếng Beth Moore, nói rằng bà có khả năng bẩm sinh để bán đồ trang sức trên TV nhưng không nên nhầm lẫn điều đó với sự kêu gọi giảng đạo. Ông bảo bà nên “về nhà.”

Một cuộc tranh cãi khác nổ ra vào những năm 2020, khi một phụ nữ tên Eileen Gray ra mặt tố cáo ông đã công khai làm nhục bà vì đã rời bỏ người chồng bạo hành. David Gray, một mục sư thiếu nhi tại Grace, đã thú nhận đánh con gái mình “quá nặng tay – dã man” vào chân, bàn chân, bàn tay và đầu, và kéo lê hai đứa con khác như một hình thức kỷ luật. Eileen Gray nói rằng bà đã được các mục sư tại Grace hướng dẫn phải tha thứ cho chồng ngay cả khi anh ta không ăn năn và phải cho các con thấy cách “chịu khổ như Chúa Giê-su.” Khi bà không chấp nhận, và đưa các con rời khỏi người chồng, MacArthur đã lên án bà từ bục giảng và hướng dẫn hội chúng xa lánh bà, ám chỉ rằng bà không thực sự là một Cơ Đốc nhân.

David Gray sau đó đã bị bỏ tù vì lạm dụng thể chất và tình dục trẻ em.

Hohn Cho, một trưởng lão tại hội thánh, đã xem xét quyết định khai trừ Eileen Gray vào năm 2022 và kết luận rằng bà đã bị đối xử bất công. Ông thúc giục các lãnh đạo sửa chữa lỗi lầm với bà, ít nhất là riêng tư. Vị trưởng lão nói với Christianity Today (CT) rằng MacArthur đã nói “hãy quên đi.”

Sau đó, Cho đã từ chức, vì phát hiện ra ít nhất tám phụ nữ khác tại Grace có những câu chuyện tương tự về việc được tư vấn ở lại với những người chồng bạo hành, ngay cả khi họ lo sợ cho sự an toàn của bản thân và con cái. Ban lãnh đạo hội thánh từ chối trả lời các cáo buộc cụ thể nhưng đã đưa ra một tuyên bố bảo vệ việc tư vấn của hội thánh là đúng theo Kinh Thánh và gọi báo cáo của CT là “những lời dối trá.”

MacArthur, trong một dịp khác, nói rằng ông rất khó khăn khi đối phó với những lời chỉ trích và cáo buộc công khai nhưng đặc biệt bị tổn thương bởi cái mà ông gọi là “sự nổi loạn.”

Ông nói: “Điều đó đã xảy ra nhiều lần. Và với tôi đó vẫn là một cú sốc. Bạn biết đấy, khi chính người bạn thân quen của mình đã giơ gót chân lên chống lại mình, người mà bạn từng bẻ bánh cùng, nó giống như những gì Kinh Thánh nói về Giu-đa.”

Những làn sóng tranh cãi, hết thập kỷ này đến thập kỷ khác, dường như không làm suy giảm tầm ảnh hưởng của MacArthur.

Nhà thờ Grace với 3.500 chỗ ngồi vẫn đầy ắp nhiều lần mỗi cuối tuần vào năm 2025. Các bài giảng của MacArthur được phát sóng trên hơn 1.000 đài phát thanh khắp nước Mỹ và được phân phối bởi Ân Điển Cho Bạn. Hơn 700 sinh viên nam đang theo học tại chủng viện The Master’s, nơi MacArthur giữ chức viện trưởng, và khoảng 5.000 người tham dự mỗi hội nghị thường niên dành cho các lãnh đạo hội thánh.

Cuốn Học Kinh Thánh Cùng MacArthur vẫn tiếp tục bán chạy và hiện có sẵn với các bản dịch New King James Version, New International Version, English Standard Version, New American Standard Bible, và Legacy Standard Bible. Ứng dụng cho điện thoại Kinh Thánh Hàng Ngày MacArthur đã có hơn 5 triệu lượt tải.

Chuyên gia xuất bản Chip Brown nói rằng mọi người tìm đến MacArthur vì họ tin tưởng ông như một mục sư và vì ông “chỉ đơn thuần làm rõ những gì Kinh Thánh nói và cách áp dụng những bài học ấy trong đời sống.”

Về phần mình, MacArthur nói ông hy vọng mình sẽ được nhớ đến vì đã giảng dạy Kinh Thánh.

Ông nói: “Tôi thực sự chỉ muốn được biết đến như một tôi tớ của Chúa, trung tín với việc giảng dạy Lời Đức Chúa Trời và khai mở những sự mầu nhiệm của phúc âm Tân Ước.”

MacArthur để lại vợ là bà Patricia Smith MacArthur; các con của họ là Matt, Mark, Marcy và Melinda; 15 người cháu và 9 người chắt.

Tác giả: Daniel Salliman.

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm của bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc 

Link bài viết gốc: https://www.christianitytoday.com/2025/07/died-john-macarthur-study-bible-expository-preaching-controversy/

admin

CÓ CÔNG BẰNG KHÔNG KHI CHÚA TRỪNG PHẠT NHỮNG NGƯỜI CHƯA TỪNG NGHE VỀ CHÚA GIÊ-SU?

Tháng 7 12, 2025/0 Comments/in Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh, THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH /by admin

Đây là một câu hỏi mà mọi Cơ đốc nhân đều phải cân nhắc vào một thời điểm nào đó: Liệu Chúa có công bằng khi trừng phạt những người chưa bao giờ nghe về Chúa Giê-su? Có rất nhiều cách để suy nghĩ về vấn đề này và cũng có rất nhiều cách để trả lời. Đây chỉ là một trong số đó.

Ẩn sau câu hỏi này gần như luôn có một giả định sai lầm – rằng con người chỉ bị kết án chỉ vì (hoặc chủ yếu vì) từ chối Đấng Christ. Nếu đúng như vậy, những người công khai từ chối Đấng Christ, là quay lưng lại với Ngài một cách có ý thức và mời gọi cơn thịnh nộ của Chúa, nhưng những người chưa từng biết hoặc chưa từng khước từ Đấng Christ thì đang ở trong trạng thái vô tội đối với Đức Chúa Trời.

Đây chính là lúc chúng ta cần quay lại các chương đầu của sách Rô-ma, nơi Phao-lô nói với chúng ta, không chút nghi nghờ rằng tất cả mọi người đều nằm dưới cơn thịnh nộ công bình của Đức Chúa Trời. Không phải sự từ chối mạc khải đặc biệt của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-Su là trọng tâm của sự kết án cho họ, mà là sự từ chối của họ đối với chính Đức Chúa Trời, bất chấp sự mặc khải của Ngài qua thiên nhiên. Mạc khải phổ quát truyền đạt sự thật cho tất cả mọi người—sự thật mà lẽ ra phải dẫn mỗi chúng ta quay về với Chúa. Tuy nhiên, trong Kinh Thánh không có ghi chép bất kỳ ai trở lại với Đức Chúa Trời chỉ dựa trên mạc khải chung mà thôi. Điều này cho thấy vấn đề không phải ở sự mạc khải hay ở Đấng Mạc Khải, mà đúng hơn là ở con người. Tất cả mọi người đều từ chối sự mạc khải của Thượng Đế. Một người tốt tuân theo tất cả các điều răn của Đức Chúa Trời—nếu điều đó có thể xảy ra—sẽ có quyền trình bày nguyên cớ của mình trước Chúa, nhưng không ai có thể làm điều đó. Vì vậy, tất cả mọi người đều dưới sự kết án của Chúa vì sự thù ghét và chối bỏ của họ đối với Ngài. Những người rõ ràng từ chối Đấng Christ làm tăng hình phạt của họ nhưng hành động đó không phải là nguyên nhân khởi đầu hình phạt. Bất kỳ ai muốn được cứu mà không đặt niềm tin vào Đấng Christ thì phải sống một cuộc đời vô tội.

Chúng ta có thể lập luận từ một góc độ hơi khác và nói rằng không có ai ở trong trạng thái vô tội trước Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không nợ ai sự cứu rỗi. Đây không phải là một câu hỏi về công bằng, mà là một câu hỏi về công lý. Tất cả mọi người đều có một món nợ tội lỗi, và tất cả đều có tội trước mặt Chúa. Chúng ta lập luận ở đây từ sự sa ngã của con người. Chỉ có một loại người—người bị mắc kẹt trong sự sa ngã hoàn toàn của bản chất tội lỗi, di truyền từ cha ông là A-đam (Rô-ma 5:18). Và vì chỉ có một loại người, nên chỉ có một loại sự cứu rỗi—niềm tin qua “A- đam” thứ hai, Chúa Giê-su Christ.

“Bất kỳ ai muốn được cứu mà không đặt niềm tin vào Đấng Christ thì phải sống một cuộc đời vô tội.”

Vậy liệu có công bằng khi Đức Chúa Trời trừng phạt những người chưa bao giờ nghe về Chúa Giê-su? Có, thế là công bằng, vì tất cả mọi người đều có tội từ bản chất. Mọi người đều mang bản tính tội lỗi và đều liên tục làm ô uế chính mình bằng những hành động tội lỗi. Mặc dù chúng ta hy vọng và cầu nguyện rằng mọi người sẽ được nghe Tin Lành của Chúa Giê-su Christ và đáp lại trong đức tin, chúng ta biết rằng tất cả mọi người cần phải nghe Tin Lành chỉ vì họ đã chết trong tội lỗi, bị kết án đến một sự công lý đời đời.

Tác giả: Tim Challies (Trích từ Don’t Call It a Comeback)

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc. 

Link bài viết gốc: https://www.challies.com/articles/is-it-fair-of-god/

admin

BÀI GIẢNG CỦA BẠN KHÔNG CẦN AI

Tháng 7 3, 2025/0 Comments/in Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh, THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH /by admin

Gần đây, tôi có nghe tin về một mục sư bị buộc rời khỏi chức vụ khi một trong những trưởng lão của hội thánh phát hiện ra ông không tự viết bài giảng của mình. Ông đã tải chúng từ một trang web tên là “kho bài giảng” và giảng nó như thể đó là của mình.

Ngay cả khi chưa có sự trợ giúp của AI tạo sinh (ví dụ như ChatGPT), một số mục sư đã bỏ qua đạo đức để tiết kiệm thời gian. Đây là một vấn đề nghiêm trọng, dù không phổ biến. AI tạo sinh càng khiến việc “ăn cắp” bài giảng trở nên dễ dàng hơn.

Trước khi giải thích tại sao bạn nên hạn chế sử dụng AI, tôi khẳng định tôi không cấm các bạn dùng AI. Về mặt bản chất, khi chúng ta tìm kiếm thông tin bằng Google, bạn đã sử dụng AI rồi. Không sai khi dùng công nghệ để tìm chính xác câu Kinh Thánh “sắt mài sắt” nằm ở đâu. Tương tự, không sai khi dùng AI để sửa lỗi chính tả, tạo điểm nhấn cho các ý chính bằng vần điệu, hoặc tìm các câu Kinh Thánh liên quan đến phân đoạn của bạn. Cá nhân tôi, trong số các lựa chọn AI tạo sinh hiện có, tôi thích dùng Claude. Lương tâm cho phép tôi dùng một số loại AI. Và thú thực, tôi dùng nó gần như hằng ngày.

Tuy nhiên, bạn nên hạn chế sử dụng AI trong việc chuẩn bị bài giảng vì bốn lý do sau:

1. Sử Dụng AI (Thường) Là Đạo Văn

Đạo văn là lý do để bãi nhiệm một người khỏi chức vụ mục sư. Nó vi phạm hai trong Mười Điều Răn: trộm cắp và tham muốn. Trộm cắp bao gồm việc lấy những gì thuộc về người lân cận của bạn, cho dù đó là dê, táo, hay sự sáng tạo của trí tuệ.

Tham muốn là việc mong muốn sai trái những thứ không thuộc về mình. Bạn chớ tham muốn sự hài hước của Matt Chandler, lòng nhiệt thành của John Piper, sự khôn ngoan của Tim Keller, hay danh tiếng của John Mark Comer. Một tội lỗi như đạo bài giảng của người khác bắt nguồn từ lòng tham muốn. Hỡi các mục sư, chúng ta được Đấng Christ biết đến và yêu thương, nên bạn không cần phải gây ấn tượng với hội thánh bằng cách trở nên giả tạo.

2. Sử Dụng AI Sẽ Kìm Hãm Sự Phát Triển Của Bạn

Lời kêu gọi cao cả nhất của một mục sư không phải là việc trình bày một bài giảng, mà là sự phát triển nhân cách. Không bởi đức hạnh và phẩm giá, thì một người không nên làm mục sư (hãy xem 1 Ti-mô-thê 3 và bối cảnh xung quanh lời khuyên của Phao-lô dành cho Ti-mô-thê, “để mọi người thấy sự tiến bộ của con” trong 1 Ti-mô-thê 4:15).

Tôi e rằng quá nhiều mục sư bị cuốn vào câu hỏi “điều gì là tốt nhất?” thay vì “điều gì là tốt?” Thật tốt khi bạn tăng trưởng trong tình yêu và niềm vui đối với những người trong hội thánh mình, điều này phát triển khi bạn soạn bài giảng (xem 1 Giăng 1:4). Việc soạn bài giảng buộc bạn phải suy nghĩ về các thính giả của mình và viết cho họ. Đó là một hành động của tình yêu thương. Tôi hay nói với sinh viên của mình rằng dùng AI để viết bài luận cũng giống như đến phòng tập gym và mang theo một robot để nâng tạ hộ mình vậy. Bằng cách dùng AI để viết bài giảng, bạn đang bỏ qua cơ hội để phát triển những “cơ bắp tình yêu” thiết yếu, bao gồm sự hiểu biết về Đức Chúa Trời và tình yêu dành cho dân sự Ngài.

3. Sử Dụng AI Có Thể Khiến Hội Thánh Mất Nhân Tính

Các buổi nhóm lại của hội thánh không đơn giản chỉ là sự truyền thông của những nội dung – đó là chứng nhân hùng hồn của tin lành trong một thế giới sa ngã. Hội thánh không phải là nơi chứa đầy những “bộ não trên cây gậy,” mà là những người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Mục sư ơi, bạn không thể nuôi dưỡng họ bằng máy móc. Nhu cầu tiết kiệm thời gian trong mọi khía cạnh của cuộc sống là một khuynh hướng tội lỗi. Máy móc có thể nói mọi thứ tiếng nhưng chúng không thể yêu thương, không thể nhịn nhục, và không thể nhân từ (xem 1 Cô-rinh-tô 13:4).

Tôi e rằng nhiều hội thánh đã và đang trượt dốc từ nhiều năm trước, chấp nhận những sự thực dụng trong các buổi nhóm lại của mình, thay vì nhìn vào Kinh Thánh. Có lẽ nó bắt đầu từ phong trào thế tục hóa, hay sự suồng sã xuất phát từ đại dịch, hoặc nhiều khả năng hơn, là sự tích hợp công nghệ sâu hơn vào chương trình của hội thánh. Dù vậy, chúng ta phải đảm bảo các tiêu chuẩn về hội thánh (giáo hội học) của mình được định hình bởi lịch sử chính thống và Kinh Thánh hơn là bởi sự đổi mới một cách thực dụng. Thà một mục sư hiện diện với dân sự mình và giảng một phân đoạn Kinh Thánh không trau chuốt hay nghiên cứu sâu rộng, còn hơn là một mục sư cắt xén công việc dựa vào công nghệ. Có người nhờ cậy xe ngựa, người khác nhờ cậy AI, nhưng chúng ta nhờ cậy Danh Giê-hô-va (Thi Thiên 20:7). Hãy cho tôi một người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, người yêu mến Ngài và đã vật lộn với lời Ngài trong một phân đoạn Kinh Thánh, chứ không phải một cỗ máy được tạo ra để phản chiếu thế gian.

Một bài giảng được định hình bởi nhiều quyết định về “điều dân sự cần nghe” mà đôi khi đến từ vô thức, được hình thành từ sự tương tác của người giảng với dân sự. AI không có quyền truy cập vào loại dữ liệu ấy, dữ liệu con người (mà thực ra không phải là “dữ liệu” chút nào, vì con người không thể được định lượng như máy móc).

4. Sử Dụng AI Có Thể Gây Chia Rẽ

Tôi cá rằng có một vài thành viên hội thánh sẽ có vấn đề về lương tâm với việc sử dụng AI để tạo ra những nội dung trong buổi nhóm, ví dụ như phần giới thiệu bài giảng, hoặc thậm chí các câu hỏi thảo luận cho nhóm tế bào. Với tư cách là một người lãnh đạo hội thánh, bạn cần cẩn thận khi giới thiệu các công cụ hoặc phương pháp mới có thể gây chia rẽ. Và nếu bạn cảm thấy xấu hổ khi thừa nhận mình dùng AI, thì đó là dấu hiệu bạn không nên dùng nó. Rô-ma 14 kêu gọi hội thánh hiệp nhất giữa sự chia rẽ trong những vấn đề thứ yếu, và tôi tin rằng thiệt hại tiềm tàng đối với lương tâm của một vài người trong hội thánh lớn hơn những lợi ích cá nhân mà một mục sư có thể đạt được.

Tương tự, trong 1 Cô-rinh-tô 8–10, Phao-lô giải thích rằng của cúng thần tượng có thể không có vấn đề, nhưng điều quan trọng là nhận thức của người khác và lương tâm của họ. Nguyên tắc đó áp dụng ở đây – sự tự do của chúng ta trong việc sử dụng công nghệ không đáng để đánh đổi lương tâm của bầy chiên mình.

Với tất cả những lý do trên và nhiều lý do khác nữa, bài giảng của bạn không cần AI.

Từ lâu, các mục sư đã sử dụng các sách chú giải, các câu tham chiếu, các bản sao bài giảng của các mục sư khác, các công cụ phân tích Kinh Thánh – và làm như vậy là đúng đắn, tất nhiên là ở mức độ vừa phải. Hầu hết mọi nguoiwf đều đồng ý rằng đây là những công cụ hỗ trợ, không phải là cái nạng để chúng ta lệ thuộc, khi được sử dụng đúng cách. Nhưng AI đưa ra một vùng xám mới. Việc hỏi ChatGPT để nhận phản hồi về một bài giảng đã viết và nhẹ nhàng kết hợp một số gợi ý dường như không vượt qua ranh giới đạo đức. Nhưng còn về một minh họa do AI tạo ra thì sao? Phác thảo một dàn ý từ một phân đoạn Kinh Thánh? Hay soạn thảo một phần kết luận trau chuốt? Cá nhân tôi, tôi tránh những cách sử dụng đó, với những lý do tôi đã nêu trên, nhưng tôi hiểu tại sao một số mục sư có thể đi theo con đường đó.

Chúng ta cần hỏi nhiều hơn là, “Điều này có thể giúp tôi tiết kiệm thời gian như thế nào?” Cuối cùng, một mục sư phải tự hỏi mình và các trưởng lão của mình: Việc tôi sử dụng AI có vi phạm đạo đức không? Đó có phải là đạo văn không? Nó có đang kìm hãm sự phát triển của tôi hay gây ra những hậu quả không mong muốn không? Nó có góp phần vào việc phi nhân hóa buổi nhóm không? Nó có thể gây chia rẽ không?

Đó là những câu hỏi chúng ta phải tự hỏi. Bởi vì bất kể công cụ nào, bất kể xu hướng nào, chúng ta đang rao giảng về Đấng Christ chịu đóng đinh; Ngài là hòn đá vấp ngã cho các thuật toán, là điều bị coi là điên rồ trong thời đại công nghệ ngày nay.

Tác giả: Andrew Noble – phục vụ tại hội thánh Grandview ở Ontario.

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc 

Link bài viết gốc: Your Sermon Doesn’t Need AI – The Gospel Coalition | Canada

admin

NHỮNG PHÉP LỊCH SỰ CƠ BẢN: 5 QUY TẮC VÀNG CHO NHÓM NHỎ

Tháng 6 20, 2025/0 Comments/in Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh, THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH /by admin

Hãy tưởng tượng buổi tối đầu tiên của một nhóm tế bào mới. Mọi người đều hào hứng, cuộc thảo luận diễn ra suôn sẻ, và mức độ chia sẻ sâu sắc hơn cả kì vọng… Và rồi, đúng lúc mọi người đang lắng xuống để suy ngẫm và cầu nguyện, thì chuyện ấy xảy ra. Điện thoại di động của ai đó đổ chuông. Chủ nhân chiếc điện thoại nhìn quanh đầy vẻ tội lỗi. Một người khác cười khúc khích. Một người nữa liếc nhìn giận dữ. Điện thoại cứ đổ chuông, cho đến khi người đó vội vã bước ra ngoài để nghe máy. Nhưng giờ đây, bầu không khí đã bị phá vỡ. Những người khác cảm thấy khó chịu hoặc mất tập trung, lúc đó bạn tự hỏi: “Làm thế nào chúng ta có thể tránh được điều này?”

Câu trả lời đơn giản là: phải có các quy tắc cơ bản. Luôn cần có những nguyên tắc nhóm tế bào mà mọi người có thể đồng tình. Điều này giúp chúng ta biết điều gì có thể trông đợi ở người khác và điều gì người khác mong đợi ở mình. Những quy tắc ấy cũng thúc đẩy sự tương tác qua lại và duy trì sự bình đẳng giữa các thành viên, để không ai trở nên quan trọng hơn hay kém quan trọng hơn người khác.

Tất nhiên, nếu bạn bước vào một nhóm tế bào và tuyên bố: “Đây là các quy tắc của nhóm chúng ta!” thì những người khác có thể cảm thấy hơi khó chịu. Thay vào đó, hãy tiếp cận bằng cách để cả nhóm cùng nhau xây dựng một vài quy tắc cơ bản đơn giản. Đây có thể là hoạt động đầu tiên của các bạn với tư cách là một nhóm tế bào mới, và điều này sẽ giúp mọi người có cảm giác được là một phần của nhóm.

Trong buổi nhóm đầu tiên (hoặc càng sớm càng tốt, nếu nhóm của bạn đã bắt đầu), hãy yêu cầu mỗi người đề xuất một nguyên tắc. Bạn có thể làm điều này bằng cách nói to và ghi lại các gợi ý lên bảng giấy, hoặc yêu cầu mọi người viết một hoặc hai ý tưởng lên thẻ ghi chú, sau đó thu lại và đọc to (để tránh làm những người chưa sẵn sàng chia sẻ cảm thấy bối rối). Dù bằng cách nào, hãy đóng góp các đề xuất về các nguyên tắc nhóm tế bào, để người khác đóng góp ý kiến, và quyết định chỉ một vài điều mà mọi người đều có thể đồng ý. Bạn không cần một danh sách dài, nhưng hãy đảm bảo rằng những mối quan tâm của cả nhóm đều được giải quyết bởi các quy tắc mà mọi người đã thống nhất.

1.Bảo Mật Tuyệt Đối.

Điều gì được nói trong nhóm, hãy giữ kín trong nhóm. Không ai muốn một ngày nọ phát hiện mình trở thành chủ đề của những câu chuyện phiếm hoặc những “buổi thảo luận cầu thay” dù có thiện chí. Đây có lẽ là nguyên tắc cơ bản quan trọng nhất trong tất cả.

2.Bắt Đầu Đúng Giờ – Và Kết Thúc Đúng Giờ.

Với tư cách là trưởng nhóm, bạn có trách nhiệm hướng dẫn nhóm tuân thủ cam kết này. Việc này đặc biệt hữu ích cho những ai có con nhỏ, và những người có lịch làm việc bị ảnh hưởng bởi các buổi tối hoặc những cuộc họp kéo dài.

3.Thảo Luận Cần Sự Tham Gia Của Tất Cả Mọi Người.

Để buổi nhóm hiệu quả hơn, mọi người cần tham gia với tư cách là người lắng nghe, nhưng cũng là người nói. Ví dụ khi một người đang độc chiếm cuộc thảo luận, người dẫn nhóm có thể nói: “Bây giờ, chúng ta hãy lắng nghe ý kiến của người khác nhé.” Và rồi, khi một người khác đã lắng nghe một thời gian dài, trưởng nhóm có thể hỏi: “Jennie này, bạn có muốn chia sẻ điều gì không?”

4.Luôn Nhớ Phép Lịch Sự.

Tránh phủ nhận suy nghĩ của người khác, đừng cười người khác khi họ chia sẻ (trừ khi họ vừa kể một câu chuyện cười), và tuyệt đối không có bất kỳ lời nói nào gây tổn thương. Đây là những hành động khiến người khác “đóng lòng” và cảm thấy không thoải mái khi chia sẻ. Khi mà việc mở lòng vốn đã khó khăn đối với một số người, thì nhóm tế bào nên là nơi đầy niềm vui và sự đón chào.

5.Sự Bất Đồng Là Điều Bình Thường.

Việc mọi người có những ý kiến khác nhau là một sự thật hiển nhiên trong cuộc sống. Nếu nhóm chúng ta có những suy nghĩ khác nhau về một vấn đề, không nên có yêu cầu nào buộc mọi người phải đồng ý. Sau một khoảng thời gian thảo luận hợp lý, trưởng nhóm hoặc một thành viên khác trong nhóm có thể đề nghị rằng đã đến lúc tạm gác lại điểm này dù chưa đi đến kết luận và chuyển sang câu hỏi thảo luận hoặc hoạt động khác. Không ai nên cảm thấy bị tổn thương nếu người khác không có cùng quan điểm với mình.

Và có lẽ một gợi ý nho nhỏ cuối cùng… Hãy tắt điện thoại di động trước khi nhóm bắt đầu!

Tác giả: Amy Nappa – tác giả nhiều đầu sách cơ đốc, như hồi ký “Hard Way Home” và “The Youth Bible”

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc

Link bài viết gốc: Should We Pray in, for, or to the Holy Spirit? | Crossway Articles

admin

Nên Cầu Nguyện “Trong”, “Cho”, Hay “Hướng Về” Đức Thánh Linh?

Tháng 6 13, 2025/0 Comments/in THẦN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH, Thần Học Và Đời Sống Hội Thánh /by admin

“Đức Thánh Linh là không gian và cũng là bầu khí quyển của sự cầu nguyện,” W. H. Griffith Thomas (1861–1924) từng viết. Ông nhấn mạnh rằng, dù người tin Chúa có thể cầu nguyện hướng về Ngài, vì Ngài, và trong Ngài, thì Kinh Thánh lại nghiêng hẳn về cách cuối cùng. Cầu nguyện trong Đức Thánh Linh, khi được hiểu trọn vẹn trong bối cảnh Ba Ngôi, chính là hình thái thờ phượng đặc trưng của Tân Ước. Có một dòng chảy mạnh mẽ trong sự thờ phượng Cơ Đốc, và dòng chảy ấy cuồn cuộn đổ về Đức Chúa Cha. Công việc của Đức Chúa Trời tuôn ra từ Đức Chúa Cha, thông qua Đức Chúa Con, và ở trong Đức Thánh Linh. Sự hồi đáp với Đức Chúa Trời của chúng ta, dựa trên nền tảng vững chắc này, cũng di chuyển ngược lên Tam vị: “trong Đức Thánh Linh, qua Đức Chúa Con, đến Đức Chúa Cha.” Mô hình Ba Ngôi này là “kim chỉ nam” cho lời cầu nguyện của người tin Chúa luôn hướng về thiên đàng, và Đức Thánh Linh chính là Đấng thực thi. Chúng ta cần khắc ghi trọng điểm này thật rõ ràng trong tâm trí.

Vậy, liệu chúng ta có thể cầu nguyện hướng về Đức Thánh Linh? Chính xác hơn, có đúng đắn không khi một người tin Chúa tập trung tâm trí vào ngôi vị riêng biệt của Đức Thánh Linh và dâng lời nguyện lên Ngài? Câu trả lời ngắn gọn là có. Bạn có thể cầu nguyện đến bất kỳ Ngôi vị nào của Đức Chúa Trời, và vì thế, Đức Thánh Linh hoàn toàn đủ khả năng để tiếp nhận lời cầu nguyện.

Tuy nhiên, câu trả lời dài hơn là: dù điều đó được phép, nhưng việc hướng lời cầu nguyện trực tiếp đến Đức Thánh Linh luôn có một chút gì đó “lệch trọng tâm.” “Lệch trọng tâm” có thể mang nghĩa là lạ lùng, nhưng ý nghĩa gốc của nó là “không ở giữa.” Chúng ta biết rằng trung tâm của lời cầu nguyện là Đức Chúa Cha, Đấng mà chúng ta hướng về qua Đức Chúa Con trong Đức Thánh Linh. Lời cầu nguyện được Đức Thánh Linh ban quyền năng và khơi gợi luôn tập trung vào trọng điểm, luôn đẩy người thờ phượng vào sâu trong cuộc gặp gỡ với Đức Chúa Cha. Vậy vị trí của Đức Thánh Linh trong cuộc gặp gỡ này là gì? Đây là lúc chúng ta cần suy nghĩ thật rõ ràng về những gì đang diễn ra trong tâm linh khi cầu nguyện, theo sự dẫn dắt của Kinh Thánh.

Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh không bao giờ bị loại trừ khỏi cuộc gặp gỡ của chúng ta với Đức Chúa Trời trong lời cầu nguyện. Trên thực tế, nếu gạt bỏ hai ngôi vị này, chúng ta đang xem họ như phương tiện để đạt được mục đích, hoặc những “công cụ phụ trợ” chỉ giúp đưa chúng ta đến đích. Điều đó đồng nghĩa với việc hạ thấp họ xuống địa vị phi thần linh, chỉ là con đường dẫn đến Chúa chứ không phải là chính Chúa. Nhưng Đức Chúa Trời chân thật duy nhất là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh. Chúng ta không bao giờ tương giao với Đức Chúa Trời mà thiếu vắng Đức Thánh Linh. Chúng ta thờ phượng, tôn thờ, và yêu mến chính Đức Thánh Linh.

Khi chúng ta khăng khăng điều này và thờ phượng trọn vẹn Ba Ngôi, đôi khi chúng ta có một xu hướng tinh thần là đặt Ba Ngôi ở một khoảng cách xa xôi như là đối tượng của lời cầu nguyện. Làm như vậy có vẻ hơi trừu tượng quá. Hãy lưu ý rằng cầu nguyện Ba Ngôi không chỉ đơn thuần là cầu nguyện hướng tới một mục tiêu trừu tượng. Nhưng sự cầu nguyện Ba Ngôi mang tính nội tại hơn thế. Lời cầu nguyện như vậy, thực ra, đã được hòa mình vào sự vận hành của Ba Ngôi, không phải là Ba Ngôi “ở đằng kia” tách biệt, mà là Ba Ngôi đang bao trùm, đã đưa người tin Chúa vào mối quan hệ thân thiết với Đức Chúa Cha qua Đức Chúa Con trong Đức Thánh Linh. Hãy chú ý đến tầm quan trọng sâu sắc của từ nhỏ bé “trong” đối với sự hiểu biết của chúng ta về lời cầu nguyện và Đức Thánh Linh. Cầu nguyện trong Đức Thánh Linh là cầu nguyện trong Ba Ngôi, một cách tập trung vào trọng điểm. Đây là lý do Andrew Murray nói: “Trong các chức năng của Đức Thánh Linh, điều dẫn chúng ta sâu sắc nhất vào sự hiểu biết về vị trí của Ngài trong kế hoạch thiêng liêng của ân, và vào sự mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh, là công việc Ngài thực hiện với tư cách là Thần linh của sự cầu nguyện.” Chiều sâu của sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong lời cầu nguyện là tối quan trọng, và đó là điều chúng ta có nguy cơ bỏ lỡ nếu chúng ta chuyển từ lời cầu nguyện có trọng tâm, sang một sự thợ phượng tùy chọn, và lệch trọng tâm.

Một phần khác của câu trả lời dài cho câu hỏi về việc cầu nguyện đến Đức Thánh Linh liên quan đến lời chứng của Kinh Thánh và một số truyền thống trong giải kinh Cơ Đốc. Thực tế là không có lời cầu nguyện cụ thể nào trong Kinh Thánh hướng trực tiếp đến Đức Thánh Linh. Vậy chúng ta phải hiểu điều này như thế nào? Chỉ một số ít các truyền thống Cơ Đốc giáo quá thiên về nghĩa đen mới xem sự im lặng này của Kinh Thánh là lý do kết luận để không cầu nguyện đến Đức Thánh Linh. Hầu hết các giáo hội và hệ phái Cơ Đốc lớn đều có những lời cầu nguyện dâng lên Đức Thánh Linh, đặc biệt dưới hình thức bài hát. Có những bài thánh ca Hy Lạp rất cổ kính dành cho Ngài, bài thánh ca Latinh “Lạy Đấng Tạo Hóa Thần Linh” của Rabanus Maurus (khoảng 780–856), và bài “Lạy Đức Thánh Linh, Ngài Hãy Thắp Lòng Con” của Charles Wesley, với câu cuối đầy ý nghĩa hướng về Đức Thánh Linh:

Lạy Chúa, qua chính Ngài,

chúng con sẽ nhận biết,

nếu Ngài chiếu sáng trong con;

và cùng với các thánh đồ dưới trời,

ngợi ca chiều sâu của tình yêu thiêng liêng.

Chúng ta cũng tìm thấy vô số lời cầu nguyện dâng lên Đức Thánh Linh trong các nghi thức phụng thờ của các giáo hội qua nhiều thế kỷ, đặc biệt là những phần nhỏ trong các lời cầu nguyện dài, lần lượt hướng về mỗi ngôi vị trong Ba Ngôi. Những lời nguyện hay nhất trong số đó được trau chuốt kỳ diệu và hầu như luôn cầu khẩn cả Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, hướng tâm trí người thờ phượng đến sự trọn vẹn của mối quan hệ Ba Ngôi. Và đây chỉ là những tài liệu được viết ra về sự sùng kính của Cơ Đốc giáo; hãy hình dung vô số lần và nơi chốn không được ghi lại mà các tín hữu đã dâng lời cầu nguyện lên Đức Thánh Linh.

Tóm lại, dường như có một cảm nhận chung trong vòng những người tin Chúa rằng sự vắng mặt của những lời cầu nguyện trực tiếp đến Đức Thánh Linh trong Kinh Thánh đã thiết lập một loại định hướng cho lời cầu nguyện của chúng ta. Cầu nguyện hướng về Đức Thánh Linh là được phép và thậm chí có thể quan trọng để tái khẳng định hoàn toàn thần tính và ngôi vị riêng biệt của Ngài, hoặc để nhắc lại công việc của Ngài. Nhưng điều đó cần được giữ trong tỷ lệ phù hợp. Cả với tư cách cá nhân lẫn hội thánh, người tin Chúa nên tìm cách điều chỉnh đời sống cầu nguyện của mình theo tỷ lệ Kinh Thánh. Nếu bạn chủ yếu cầu nguyện hướng về Đức Thánh Linh, bạn sẽ không vi phạm bất kỳ mệnh lệnh Kinh Thánh nào, nhưng đời sống sùng đạo của bạn sẽ thiếu cân đối một cách rõ rệt theo tỷ lệ Kinh Thánh. Chính Đức Thánh Linh chống lại sự “lệch trọng tâm” này một cách mạnh mẽ, cả qua ngôi vị Ngài và qua Lời Ngài đã soi dẫn. H. C. G. Moule đã tóm tắt quan điểm khôn ngoan này:

“Trong khi cẩn trọng và thành tâm ghi nhớ các luật về tỷ lệ trong Kinh Thánh, và rằng theo đó, mối quan hệ của người tin Chúa với Đức Thánh Linh không hẳn là sự thờ phượng trực tiếp mà là sự tin cậy hoàn toàn, chúng ta hãy tin tưởng và biết ơn thờ phượng Ngài, và xin Ngài ban phước, khi tâm linh chúng ta được thúc đẩy để hành động như vậy dưới ân điển của Ngài.”

Câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi, “Tôi có thể cầu nguyện hướng về Đức Thánh Linh không?” là có, nhưng chủ yếu bạn nên cầu nguyện trong Đức Thánh Linh, qua Đức Chúa Con, để đến với Đức Chúa Cha.

Câu hỏi về sự cầu nguyện này là một hình ảnh thu nhỏ hoàn hảo cho toàn bộ giáo lý của chúng ta về Đức Thánh Linh. Như thường lệ, và đây là lần thứ ba, điều tưởng chừng là một trở ngại hay sự phức tạp trong môn thần học về Thánh Linh (pneumatology) lại hóa ra là một phước hạnh. Kinh Thánh có nói về Đức Thánh Linh một cách phi cá nhân không? Có, bởi vì Ngài đang hành động cách cá nhân bên trong chúng ta. Tên của Đức Thánh Linh có vẻ không giống một cái tên lắm phải không? Đúng vậy, bởi vì ta cần cả Kinh Thánh để hiểu mọi phương diện của danh Ngài. Kinh Thánh có thiếu những lời cầu nguyện dâng lên Đức Thánh Linh không? Có, bởi vì tất cả các lời cầu nguyện trong Kinh Thánh đều ở trong Đức Thánh Linh. Bằng những cách này và nhiều cách khác, chính Đức Thánh Linh kêu gọi chúng ta học biết Ngài là ai từ chính Ngài, chứ không phải từ sự suy diễn vô cớ và lạc lối của chúng ta. ” Lạy Chúa, qua chính Ngài, chúng con sẽ nhận biết.”

Khi chúng ta hết lòng lắng nghe Đức Thánh Linh theo cách Ngài muốn, chúng ta thấy rằng Ngài không chỉ đón nhận sự thờ phượng của chúng ta mà còn có chủ động hướng sự chú ý của chúng ta đến Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Một người tin Chúa sống và bước đi trong Đức Thánh Linh chủ yếu nói về Chúa Giê-su Christ và chủ yếu trò chuyện với Đức Chúa Trời là Cha.

___________________________

Tác giả: Fred Sanders – tiến sĩ thần học và giáo sư thần học tại trường đại học Biola.

Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc

Quan điểm bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc

Link bài viết gốc:Should We Pray in, for, or to the Holy Spirit? | Crossway Articles

Page 1 of 15123›»

Đọc nhiều

  • Mười Lời Cầu Nguyện Cho Năm Mới 2022
  • “Vết Xe Đổ” Của Các Mục Sư Sa Ngã
  • CHÂN DUNG NGƯỜI NỮ THEO KINH THÁNH
  • ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ THÀNH TỰU CỦA BLAISE PASCAL
  • 14 Sự Thật Đáng Kinh Ngạc Về Các Mục Sư

Mới nhất

  • CHARLIE KIRK, BIỂU TƯỢNG CỦA LÒNG CAN ĐẢM, SỰ TỂ TRỊ CỦA CHÚA VÀ NIỀM HY VỌNG VỮNG CHẮC CHO CHÚNG TA.Tháng 9 24, 2025 - 3:53 sáng
  • Charlie Kirk Nói Anh Muốn Được Nhớ Đến Vì Sự Can Đảm Cho Đức TinTháng 9 13, 2025 - 9:50 sáng
  • Vẻ Đẹp Ẩn Giấu Của Một Bài Giảng DởTháng 9 5, 2025 - 3:41 chiều
  • 5 ĐIỀU LÀM TỔN HẠI UY TÍN CỦA MỘT MỤC SƯTháng 8 15, 2025 - 5:56 sáng
  • CẦN NGHIÊM TÚC NHÌN NHẬN VẤN ĐỀ NGHIỆN ĐIỆN THOẠITháng 8 11, 2025 - 10:03 sáng
Tháng 10 2025
H B T N S B C
 12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  
« Th9    
© Copyright - Giảng Luận Kinh Thánh - Enfold Theme by Kriesi
  • Facebook
  • Youtube
Scroll to top