XÂY DỰNG MỘT VĂN HOÁ CỞI MỞ, CHÂN THẬT VÀ CÓ TÍNH KHAI TRÌNH TRONG CÁC HỘI THÁNH TẠI VIỆT NAM
Giangluankinhthanh – Bên cạnh các bài dịch thuật, chúng tôi luôn mong muốn giới thiệu đến bạn đọc những bài viết của các tác giả người Việt, phản ánh cách nhìn của người Việt về những vấn đề của hội thánh Việt. Bài viết sau là của tác giả Phạm Quang Nam, người được Chúa Giê-su ban ân điển để ăn năn và nhận biết Ngài vào năm 1994, khi còn đang học tại Ba Lan. Anh Nam về Việt Nam vào năm 1998 và phục vụ Chúa tại Hà Nội từ đó đến nay. Cảm ơn anh Nam cho phép đăng bài viết này và hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc.
Hiểu về vai trò của văn hoá tổ chức
Văn hoá tổ chức và ảnh hưởng của nó lên hiệu quả hoạt động của tổ chức là những chủ đề được quan tâm nghiên cứu nhiều trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Hiểu một cách khái quát, văn hoá tổ chức là hệ thống những giá trị, niềm tin và giả định được mọi người trong tổ chức thừa nhận. Hệ thống đó giúp từng cá nhân nhận biết những hành vi nào được chấp nhận và không được chấp nhận. Nếu một người đã từng làm việc trong nhiều doanh nghiệp khác nhau thì có thể quan sát được những chuẩn mực khác nhau giữa các doanh nghiệp. Có doanh nghiệp yêu cầu nhân viên ăn mặc lịch sự khi đến làm, có doanh nghiệp thì không. Có doanh nghiệp đặt công việc lên trên hết, thứ 7 và Chủ nhật nhân viên cũng phải kiểm tra email để xem có nhiệm vụ bất ngờ nào cần phải giải quyết không, có doanh nghiệp cho phép nhân viên về sớm nếu có sự kiện gia đình quan trọng. Phản bác ý kiến của sếp trước mặt mọi người có thể được chấp nhận và lắng nghe ở một số doanh nghiệp, nhưng ở một số khác thì đây là một điều tối kỵ, trừ khi nhân viên muốn nghỉ việc. Tất cả những thực hành đó phản ánh văn hoá tổ chức khác nhau.
Có hai cách điều chỉnh hành vi của các thành viên trong tổ chức. Cách thứ nhất là đưa ra những quy định và chế tài bằng văn bản, ví dụ như nếu nhân viên đi làm muộn thì sẽ bị phạt. Đưa ra quy định cũng đồng nghĩa với việc phải có cách để theo dõi việc thực hiện các quy định đó, nếu không thì sẽ không có tác động đến hành vi của nhân viên. Nhiều công ty lắp máy đọc vân tay ở cổng để tất cả các nhân viên khi đến làm đều phải đưa ngón tay của mình vào đó và máy sẽ ghi lại thời điểm nhân viên đến. Cách này có thể thực hiện nhanh, ví dụ trong vòng một vài ngày, nhưng điểm yếu của nó là nó chỉ có thể điều chỉnh những hành vi mà công ty coi là tiêu cực, chứ nó không thể khiến cho nhân viên đóng góp tích cực vào kết quả hoạt động chung của công ty. Một người có thể đến rất đúng giờ, nhưng sau đó pha trà, đàm thoại với đồng nghiệp và lướt web xem tin tức trong vòng hai giờ rồi mới bắt đầu làm việc. Như vậy thì kết quả công việc của họ cũng chẳng tốt hơn là bao so với những người đến làm muộn.
Cách thứ hai là xây dựng văn hoá công ty. Cách này không nhấn mạnh đến việc ban hành quy định và chế tài thực hiện, mặc dù quy định và chế tài có thể làm biện pháp bổ trợ. Nếu lãnh đạo công ty là người luôn đúng giờ và bắt đầu làm việc nghiêm túc ngay từ đầu, điều đó sẽ tạo hiệu ứng lan toả đến những trực tiếp dưới quyền, sau đó đến những nhân viên ở cấp thấp hơn nữa. Một nhân viên mới của công ty sẽ quan sát được tác phong nề nếp của mọi người và cũng sẽ học theo sự đúng giờ và làm việc nghiêm túc, mặc dù có thể công ty không có quy định bằng văn bản về việc đi làm đúng giờ và những hình phạt đi kèm nếu vi phạm. Chúng ta có thể coi đây là một nét văn hoá của công ty, một chuẩn mực mà mọi người đều vui vẻ chấp hành và không cảm thấy là một gánh nặng.
Văn hoá khác với quy định ở nhiều khía cạnh. Văn hoá là thứ khó nắm bắt và mô tả hơn. Nếu như quy định về những vấn đề A, B, C có thể được xem trong các văn bản liên quan, thì văn hoá lại liên quan đến cách nghĩ và giá trị của mọi người, giống như được ghi trong lòng vậy. Bởi vậy, quy định thường được nhìn nhận như là một cái gì đó bên ngoài, ép tôi vào khuôn khổ giống như một cái khuôn ép bột để làm bánh trung thu vậy, nhưng văn hoá lại là một phần của tôi. Văn hoá hướng nhiều đến sự tự nguyện, trong khi quy định lại mang tính ép buộc. Vì thế, văn hoá không cần phải đi kèm với một cơ chế theo dõi và phát hiện, đôi khi rất tốn kém để xây dựng và thực thi. Nếu như quy định hướng nhiều đến việc phát hiện những hành vi tiêu cực và chế tài đi kèm, văn hoá lại hướng nhiều đến việc phát triển những hành vi tích cực. Gần như không thể xây dựng được một đội ngũ bán hàng thân thiện và nhiệt tình với khách hàng bằng cách liệt kê những hành vi thiếu tôn trọng khách hàng cùng những hình phạt tương xứng. Thay vào đó, người lãnh đạo cần kết hợp nhiều công cụ khác nhau, từ việc tuyển chọn nhân viên, xây dựng chế độ đãi ngộ, đào tạo, làm gương để đạt được mục đích này. Như vậy, xây dựng một văn hoá khó hơn nhiều so với việc xây dựng một quy định, nhưng khi văn hoá đã được hình thành rồi thì nó có ảnh hưởng lớn đến hành vi của nhân viên mà không cần một cơ chế theo dõi tốn kém.
Bảng dưới đây mô tả những điểm khác biệt chính giữa văn hoá và quy định trong một tổ chức.
Nhiều nhà nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp đã chỉ ra mối liên hệ giữa văn hoá và hiệu quả kinh doanh. Có một văn hoá tốt là một lợi thế cạnh tranh, đưa doanh nghiệp tiến lên trsong việc thúc đẩy sáng tạo và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp có một văn hoá tệ thì điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh và sẽ dẫn đến phá sản.
Lý do cần phải xây dựng văn hoá cởi mở, minh bạch trong hội thánh
Hội thánh không phải là một tổ chức hay doanh nghiệp do con người thành lập nên, nhưng là tập thể của những người tội lỗi đã được Đức Chúa Trời kêu gọi, lựa chọn và cứu chuộc qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Thông qua hội thánh, Đức Chúa Trời bày tỏ ân điển, quyền năng và vinh quang vĩ đại của Ngài khi Ngài tha thứ và biến đổi đời sống của những con người tội lỗi để họ phản chiếu những đặc tính tốt đẹp của Ngài. Ngài muốn thánh hoá từng thành viên trong Hội thánh, để họ trở nên không chỗ trách được trước mặt Ngài (Ê-phê-sô 1:4). Mục đích của Ngài với Hội thánh là thánh hoá cả Hội thánh, “nhằm trình diện trước mặt Ngài một Hội Thánh vinh hiển, không vết, không nhăn, không gì giống như vậy, nhưng thánh sạch và toàn hảo” (Ê-phê-sô 5:26-27). Sự thánh hoá là ý muốn của Chúa cho từng cá nhân và cả Hội thánh.
Sự nên thánh hay thánh hoá mà Kinh Thánh nói đến là sự nên thánh trong tấm lòng của con người, rồi được thể hiện ra bên ngoài. Kinh Thánh Cựu Ước nói về Đức Chúa Trời là Đấng lấy tấm lòng bằng đá ra khỏi con người tội lỗi và ban cho họ tấm lòng bằng thịt (Ê-xê-chiên 11:18-20). Ngài đặt luật pháp của Ngài vào lòng người và ghi khắc điều răn của Ngài vào tâm khảm của họ (Giê-rê-mi 31:33). Chúa quan tâm trước hết đến tấm lòng, không phải là dáng vẻ bên ngoài. Ngài là Đấng lên án sự giả hình của Y-sơ-ra-ên, khi họ thờ phượng Chúa bằng môi miệng, nhưng lòng của họ lại rất xa Chúa (Ê-sai 29:13). Trong Tân Ước, Chúa Giê-xu nói: “Phước cho những người có lòng trong sạch, Vì sẽ thấy Đức Chúa Trời!” (Ma-thi-ơ 5:8). Sứ đồ Phao-lô kêu gọi các anh chị em tin Chúa hãy “được biến hóa bởi sự đổi mới của tâm trí mình, để phân biệt đâu là ý muốn tốt đẹp, vừa lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời.” (Rô-ma 12:2).
Con đường dẫn đến sự nên thánh và đổi mới tấm lòng đó là ăn năn, xưng nhận tội lỗi, đón nhận sự tha thứ của Chúa bằng đức tin và nương cậy vào Đức Thánh Linh để nhận năng lực chiến thắng trên quyền lực của tội lỗi. Tội lỗi sẽ mất đi sức mạnh khi bị phơi bày trước ánh sáng lẽ thật và ân điển của Đức Chúa Trời.
“Ai che giấu sự vi phạm mình sẽ không được thịnh vượng, nhưng người nào xưng ra và từ bỏ nó sẽ được thương xót.” (Châm ngôn 28:13).
“Nếu chúng ta nói rằng mình không có tội thì chúng ta tự lừa dối mình và chân lý không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta xưng tội lỗi mình thì Ngài là Đấng thành tín và công chính sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói rằng mình đã không phạm tội, chúng ta làm cho Ngài trở thành kẻ nói dối và lời Ngài không ở trong chúng ta.” (I Giăng 1:8-10)
Một điều dễ quan sát là người phạm tội khi biết việc mình làm là xấu thì luôn mong muốn giấu hoặc đẩy tội lỗi xa khỏi mình. Chúng ta nhìn thấy điều này ở A-đam và Ê-va khi họ lần đầu tiên không vâng lời Đức Chúa Trời. Sau khi phạm tội họ đã trốn Chúa (giấu) và khi bị Ngài chất vấn, không thể giấu tiếp được nữa thì A-đam nói việc này xuất phát từ Ê-va còn Ê-va thì nói việc này là tại con rắn (Sáng Thế Ký 3:12-13). Sau khi Ca-in giết em mình là A-bên và bị Đức Chúa Trời hỏi “A-bên, em con ở đâu?”, ông đã cố giấu “Con không biết. Con là người giữ em con sao?” (Sáng Thế Ký 4:9). Vua Đa-vít, sau khi phạm tội ngoại tình cùng Bát-sê-ba, cũng đã cố gắng giấu không cho mọi người biết tác giả thật của cái thai trong bụng bà là ai, và khi không giấu được điều đó, ông đã ngấm ngầm đẩy chồng của bà đến chỗ chết trong chiến trận (II Sa-mu-ên 11). Giu-đa Ích-ca-ri-ốt ra đi trong lúc trời tối để thực hiện ý đồ phản bội Chúa Giê-xu (Giăng 13:30). Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng có thể dễ dàng quan sát được sự thôi thúc trong lòng để che dấu và đổ tội ở chính bản thân và hành vi như vậy ở những người xung quanh. Các bậc cha mẹ cũng có thể dễ dàng thấy là con cái nói dối để che dấu những hành động quậy phá của chúng một cách rất tự nhiên và từ khi còn rất bé. Chẳng cần ai phải dạy chúng điều này, nhưng cha mẹ sẽ phải tốn rất nhiều công sức để sự trung thực và dũng cảm nhận lỗi hình thành trong tấm lòng của đứa trẻ.
Che dấu tội lỗi đưa con người đến một cuộc sống giả hình. Theo Từ điển Oxford, giả hình(1) có nghĩa là “khoác một dáng vẻ đức hạnh và tốt lành bên ngoài nhưng che dấu bản chất và ý muốn thật bên trong, đặc biệt trong đời sống tôn giáo và tín ngưỡng; giả bộ, giả mạo”. Người giả hình là người đeo một cái mặt nạ để che đi bộ mặt thật của mình. Cái mặt nạ đó có thể tươi cười, nhưng mặt bên trong thì lại cau có và giận dữ. Mặt nạ có thể bày tỏ sự trìu mến và yêu thương, nhưng bên trong lại là sự đố kỵ hoặc vô cảm.
Chẳng có tội lỗi nào bị Chúa Giê-xu lên án gay gắt như tội giả hình. Ngài tha thứ tội lỗi cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: “Ta cũng không kết án chị đâu; hãy đi, đừng phạm tội nữa” (Giăng 8:11). Ngài vào nhà và ăn uống cùng với những người thu thuế và những người tội lỗi (Lu-ca 5:27-32). Với người đàn bà tội lỗi, Chúa Giê-xu nói: “Tội lỗi con đã được tha” (Lu-ca 7:48). Nhưng trong Ma-thi-ơ 23, Chúa Giê-xu nhắc lại 6 lần câu “Khốn cho các ngươi, các thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là những kẻ đạo đức giả” (câu 13, 15, 16, 23, 25, 27). Chúa ví họ như “những mồ mả tô trắng, bên ngoài có vẻ đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và mọi thứ ô uế”. Họ cũng vậy, “bên ngoài làm ra vẻ công chính trước mặt người ta, nhưng bên trong thì đầy sự gian ác và đạo đức giả” (câu 27, 28). Trong chương này, Chúa Giê-xu nói sự thay đổi của con người cần phải xuất phát từ bên trong rồi ra đến bên ngoài, giống như chén đĩa cần phải được rửa bên trong trước, để bên ngoài cũng được sạch (câu 26).
Sự giả hình có thể đánh lừa con người, nhưng không thể đánh lừa Đức Chúa Trời, vì Ngài là Đấng “dò xét tâm trí, thử nghiệm tấm lòng, báo đáp cho mỗi người tùy con đường họ đi và tùy kết quả công việc họ làm.” (Giê-rê-mi 17:10). Chúa là Đấng “biết rõ mọi điều trong lòng người” (Giăng 2:25).
Thừa nhận tội lỗi, nhận trách nhiệm, ăn năn, lột bỏ mặt nạ không phải là xu hướng tự nhiên của con người. Chính ân điển của Đức Chúa Trời hành động trong tấm lòng của chúng ta đã giúp chúng ta đi ngược lại với bản năng tự nhiên của sự che dấu và giả hình. Đức Thánh Linh đã cáo trách, giúp chúng ta nhận thức được về tội lỗi (Giăng 16:8) và chạy đến với Chúa Giê-xu để giải quyết tội lỗi, thay vì che dấu hay đổ cho người khác.
Người Việt Nam trước khi tin Chúa lớn lên và trưởng thành trong một văn hoá giả hình. Chúng ta rất sợ bị “mất mặt”, “mất thể diện” trước mặt mọi người. Trong những thói xấu của người Việt, sử gia Trần Trọng Kim có liệt kê: “Tâm địa nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng.”(2) Cả ba đặc tính cuối cùng, khoe khoang, ưa trang hoàng bề ngoài và hiếu danh vọng, đều liên quan đến dối trá và giả hình. Đối với người Việt, “một miếng giữa làng còn hơn một sàng xó bếp”, hàm ý chỉ ăn một miếng ở nơi cao trọng, dành cho những người có danh vọng, chức vị, còn sướng hơn ăn cả một mâm cỗ ở nơi mà chẳng ai nhìn thấy. Đây chính là hiếu danh. Trong mối quan hệ cá nhân, có những lúc chúng ta “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, ý là tỏ ra bề ngoài thì OK đây, nhưng bên trong thì không như vậy. Người Việt quen với việc “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, và chẳng ai thích “Vạch áo cho người xem lưng”. Những câu nói cửa miệng đấy phản ánh cách nghĩ chuộng sĩ diện trong văn hoá Việt Nam.
Tất nhiên, dối trá và giả hình không phải là “đặc sản” chỉ người Việt mới có. Đó là điểm chung của cả thế giới từ khi tổ phụ A-đam và Ê-va của chúng ta ăn trái cấm. Nhưng trong văn hoá Việt Nam, những đặc điểm này ăn sâu vào nếp nghĩ, đến nỗi mọi người có thể không nhìn thấy và không coi đó là điều gì to tát.
Đi đôi với một đặc điểm khác của văn hoá là khoảng cách quyền lực lớn, sự cám dỗ giả hình lại càng trầm trọng hơn với những người giữ vị trí lãnh đạo. Khoảng cách quyền lực, theo năm chiều văn hoá của nhà tâm lý học xã hội người Hà Lan Geert Hofstede, là khái niệm để miêu tả cách một xã hội ứng xử với sự bất bình đẳng về quyền lực giữa người với người(3). Xã hội có khoảng cách quyền lực lớn là xã hội chấp nhận sự chênh lệch lớn giữa người có và không có quyền lực. Xã hội đó kỳ vọng người có quyền lực sẽ đưa ra quyết định và người dưới quyền sẽ nghe theo, không được bất tuân hay cãi lại. Việt Nam, cùng với các nước châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh và trong thế giới Ả-rập, có khoảng cách quyền lực lớn hơn so với các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Israel. Trong văn hoá Việt Nam, người lãnh đạo là người đứng ở vị trí cao, được mọi người nhìn vào, tôn sùng và phục tùng. Uy tín của người lãnh đạo càng hoàn hảo bao nhiêu thì mức độ lắng nghe và vâng phục của những người phía dưới càng lớn bấy nhiêu. Cách nghĩ này của văn hoá, nếu không được nhận biết và xử lý theo Kinh Thánh, sẽ được áp dụng trong thực tế của hội thánh nữa. Người lãnh đạo thuộc linh như vậy sẽ chú trọng đến việc xây dựng hình ảnh, ngay cả khi hình ảnh đó ngày càng rời xa thực tế trong tấm lòng. Người đấy có thể dễ dàng biện minh rằng ở vị trí của mình cần phải làm như vậy, vì lợi ích của những người mà mình đang dẫn dắt. “Nếu họ không còn tôn trọng mình, không còn lắng nghe mình, thì họ sẽ không nghe Lời Chúa và đi theo Ngài nữa” – có thể người đó sẽ nghĩ như vậy. Sự biện minh như vậy nghe có vẻ phù hợp với tình yêu thương mà Chúa dạy, tuy nhiên nó càng đẩy người lãnh đạo sâu hơn vào chỗ u ám và gần hơn đến cái bẫy giả hình mà Sa-tan sẵn sàng giương ra với tất cả các con cái Chúa, đặc biệt là những người lãnh đạo hội thánh.
Khi chúng ta đến với Chúa Giê-xu, Ngài tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, kể cả tội lỗi dối trá và giả hình. Một con người mới được Đức Chúa Trời tạo dựng nên trong lòng chúng ta theo hình ảnh tốt đẹp của Ngài. Điều đó không có nghĩa là từ thời điểm ấy trở đi, chúng ta sẽ không còn phải vật lộn với sự háo danh, sĩ diện và không còn bị cám dỗ để sống giả hình nữa. Những thói quen suy nghĩ cũ vẫn còn ảnh hưởng đến tâm trí của chúng ta, và chúng ta cần tỉnh táo trong trận chiến với những thói quen đó.
Trước khi bàn luận về cách đấu tranh với những thói quen cũ, chúng tôi thiết nghĩ nên nói một chút về hậu quả của dối trá và giả hình với những người tin Chúa, đặc biệt với những người lãnh đạo. Hậu quả lớn nhất cần phải nhấn mạnh ở đây là dối trá, giả hình khiến chúng ta không gần gũi Chúa như đáng ra chúng ta cần và được gần. Thói quen suy nghĩ để che dấu tội lỗi và sống không thật đặt con người lên trên Đức Chúa Trời, tìm kiếm sự tôn trọng của người khác hơn sự hài lòng của Chúa, giải quyết vấn đề tội lỗi theo cách của con người chứ không theo cách của Chúa. Ngoài ra, những tội lỗi này còn mang lại những điều tiêu cực sau trong cuộc sống của người tin Chúa:
• Cô đơn, vì chúng ta chẳng cho phép ai đến gần với con người thật của mình. Chúng ta đã tự quây nó trong một hàng rào được dựng nên bởi giả dối và mặt nạ.
• Lo lắng, bất an, vì người giả hình sợ rằng nếu con người thật của mình được phơi bày, mình sẽ bị chối bỏ, khinh thường và phán xét.
• Về lâu dài, lối sống giả hình sẽ vắt kiệt nhiệt huyết phục vụ Chúa, lấy mất đi niềm vui và nhẹ nhàng của một người con được tha thứ và yêu thương. Người lãnh đạo hội thánh, nếu không chiến đấu với thói quen suy nghĩ dẫn đến sự dối trá và giả hình, sẽ cảm thấy phục vụ Chúa như là một gánh nặng, chứ không còn sự vui tươi và nhẹ nhàng.
Cách xây dựng một văn hoá cởi mở, chân thực trong hội thánh
Nói đến xây dựng văn hoá có nghĩa là khiến hội thánh trở thành một môi trường mà mọi người tin cậy lẫn nhau, chia sẻ những khó khăn và nan đề, xưng tội với nhau, cầu nguyện và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ trên con đường theo Chúa Giê-xu. Trở thành văn hoá có nghĩa là những suy nghĩ đó được thừa nhận và thực hành không phải bởi chỉ những cá nhân đơn lẻ hay những nhóm nhỏ, nhưng được đại đa số thành viên trong hội thánh hiểu, thừa nhận và thực hành. Trong một môi trường như vậy, những người mới có thể dễ dàng học, quan sát và làm theo những người cũ, để rồi những suy nghĩ như vậy cũng sớm ăn sâu vào trong tâm trí của họ và được thực hành.
Lời Chúa là nền tảng để xây dựng một văn hoá như vậy. Chúa Giê-xu ban cho những người theo Ngài một điều răn mới, ấy là họ phải yêu thương nhau. Như Ngài đã yêu thương họ thể nào, thì họ cũng phải yêu thương nhau thể ấy. Bởi đó mà mọi người sẽ nhận biết họ là môn đồ của Chúa (Giăng 13:34-35).
Kinh Thánh không nói một cách chung chung về tình yêu thương, nhưng đưa ra những hướng dẫn cụ thể về cách thực hành tình yêu thương đó trong cuộc sống hàng ngày. “Hãy mang gánh nặng cho nhau; như vậy, anh em sẽ làm trọn luật pháp của Đấng Christ.” (Ga-la-ti 6:2). Lời khích lệ này hàm ý hai điều. Với những người đang có gánh nặng, ví dụ như những khó khăn trong cuộc sống, sứ đồ Phao-lô kêu gọi hãy tin cậy và chia sẻ những điều đó với các anh chị em. Chẳng ai có thể mang gánh nặng cho người khác nếu như không biết gánh nặng đó là gì. Với những người biết gánh nặng của người khác, ông kêu gọi họ có một tinh thần tương thân, tương ái, chung vai, gắng sức để giúp người anh chị em đang chịu nặng gánh nhằm giảm bớt gánh nặng đó. Sự giúp đỡ có thể đến qua lời cầu nguyện, lời khích lệ, động viên hoặc những hình thức giúp đỡ khác. Trong thư Rô-ma, sứ đồ Phao-lô có viết “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc” (Rô-ma 12:15). Câu Kinh Thánh này nhấn mạnh hai điều: sự chia sẻ để người khác biết về niềm vui cũng như nỗi buồn của mình, và sự đồng cảm của những tấm lòng hướng tới người khác. Hội thánh thực hiện điều này sẽ trở thành một nơi mà các thành viên có thể mang đến những niềm vui, nỗi buồn của mình để khích lệ và nhận được sự khích lệ từ phía các anh chị em. Ngạn ngữ Thuỵ Điển có câu: “Niềm vui chia sẻ nhân đôi, Nỗi buồn chia sẻ vơi đi nửa phần” (chuyển ngữ thành ca dao Việt Nam cho dễ nhớ).
Người tin Chúa được kêu gọi không chỉ chia sẻ những gánh nặng, niềm vui, nỗi buồn của mình với các anh chị em, nhưng cả những tội lỗi giấu kín nữa. Kinh Thánh khích lệ chúng ta xưng tội cùng nhau: “Vậy, hãy xưng tội cùng nhau và cầu nguyện cho nhau để anh em được lành bệnh. Lời cầu nguyện của người công chính có quyền năng và rất linh nghiệm.” (Gia-cơ 5:16). Đáng chú ý là ở những câu trước đó, sứ đồ Gia-cơ nói với các anh chị em hãy mời những trưởng lão Hội thánh đến xức dầu và cầu nguyện khi bị bệnh, nhưng trong câu 16 này, ông chỉ nói hãy xưng tội cùng nhau và cầu nguyện cho nhau. Điều đó có nghĩa là chính các anh chị em trong hội thánh hãy làm điều này với nhau, chứ không nhất thiết phải với những người lãnh đạo. Xưng tội và cầu nguyện mà sứ đồ Gia-cơ nói ở đây là mối quan hệ hai chiều, xưng tội VỚI nhau và cầu nguyện CHO nhau, chứ không giống như bí tích giải tội được thực hành trong Nhà thờ Công giáo, khi một giáo dân đến với linh mục, xưng những tội lỗi đã phạm, rồi sau đó linh mục nói: “Cha tha tội cho con. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.”
“Xưng tội với Đức Chúa Trời vốn dễ dàng hơn xưng tội với người ta” – Nhà giải nghĩa Kinh Thánh William Barclay viết như vậy trong cuốn Bình giảng sách Gia-cơ. Tôi có thể không cảm thấy xấu hổ lắm khi xưng những yếu đuối, vấp phạm và tội lỗi với Đức Chúa Trời, vì tôi biết rằng Ngài thấy rõ tất cả những thứ kín giấu trong tôi. Ngài là bề trên, tôi là bề dưới, Ngài là hoàn hảo, tôi là người tội lỗi. Lời xưng tội của tôi không thể làm Ngài ngạc nhiên và cũng không khiến Ngài ít yêu tôi hơn. Với con người thì khác, tôi có thể cảm thấy rất xấu hổ nếu như họ biết những điều xấu xa giấu kín. Sự xấu hổ này càng mạnh thêm nếu tôi là một người lãnh đạo trong hội thánh. Chúng ta sợ mất uy tín, sợ bị mọi người coi thường và nhiều nỗi sợ hãi khác nữa.
Sứ đồ Gia-cơ khích lệ chúng ta hãy xưng tội cùng nhau và cầu nguyện cho nhau, để anh em được lành bệnh. Có thể “lành bệnh” ở đây nói về chữa lành những bệnh tật trong thân thể, tiếp nối mạch văn của câu 14 và 15. Nhưng một điều rất rõ ràng là khi các anh chị em xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau thì căn bệnh “kiêu ngạo và giả hình”, là khối u ác tính trong tấm lòng, sẽ được chữa lành. Người xưng tội với người khác sẽ không tự hào về bản thân, không ra vẻ mình tốt hơn, thay vào đó, người đấy nói rằng tôi cần người anh, chị em của mình, cần sự cầu nguyện của họ để Đức Chúa Trời ban thêm cho tôi sức mạnh giúp tôi chiến thắng tội lỗi. Sự tin cậy Chúa và tin cậy nhau được thực hành trong việc này.
Các nhà tâm lý học có thể đánh giá được mức độ tin cậy giữa hai người qua việc lắng nghe cuộc nói chuyện của họ. Nếu hai người chưa biết nhau, chưa có sự tin cậy thì họ sẽ nói về những chủ đề bên ngoài như thời tiết, bóng đá, hay những thứ vô thưởng vô phạt khác. Tin nhau nhiều hơn, họ sẽ chia sẻ những suy nghĩ và ý kiến cá nhân. Ở một mức độ tin cậy cao hơn nữa, họ sẽ chia sẻ cảm xúc, những khó khăn, vật lộn trong cuộc sống. Xưng tội cùng nhau là mức độ tin cậy cao nhất, khi họ thực sự là con người thật của mình.
Khi khối u ác tính “kiêu ngạo và giả hình” được ân điển của Chúa chữa lành qua thực hành “xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau”, những hậu quả của nó như lo sợ, căng thẳng, bất an, cô đơn và những thứ tương tự cũng sẽ mất đi.
Xin lỗi và xưng tội với nhau là cách mà sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời dạy để chúng ta tiến bước trên con đường chiến thắng tội lỗi, bên cạnh việc xưng tội và nhận sự tha thứ từ Cha Thiên Thượng. Khi xưng tội với nhau, cái tôi của chúng ta sẽ cảm thấy bị tổn thương và xấu hổ, nhưng há chẳng phải Chúa Giê-xu có dạy chúng ta là chúng ta cần phải từ bỏ chính bản thân mình, vác thập tự giá và theo Ngài sao? (Ma-thi-ơ 16:24).
Như vậy, người tin Chúa vì niềm vui của sự nên thánh sẽ tự nguyện xưng nhận tội lỗi với Đức Chúa Trời và với cả con người nữa. Không phải vì ép buộc, nhưng biết rằng nếu mình tiếp tục phạm tội nữa thì mình cũng sẽ phải chịu sự xấu hổ khi xưng nó ra, và điều ấy tạo thêm động cơ để chống trả tội lỗi.
Trong thời đại mà chúng ta đang sống, thật dễ dàng để phạm tội một cách không ai biết. Chỉ cần một cái điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng là có thể xem hàng loạt những trang web khiêu dâm trên mạng. Barna Group, một tổ chức nghiên cứu Cơ đốc có uy tín, cùng với Josh McDowell Ministries, có tiến hành một cuộc điều tra về khiêu dâm và các mục sư ở Mỹ vào năm 2016, với một số kết quả như sau:
• Phần lớn các mục sư (57%) và các mục sư phụ trách thanh thiếu niên (64%) thừa nhận mình đã từng vật lộn với những nội dung khiêu dâm, trong hiện tại hoặc trong quá khứ.
• 21% các mục sư phụ trách thanh thiếu niên và 14% các mục sư thừa nhận mình đang vật lộn với những nội dung khiêu dâm.
• 12% các mục sư phụ trách thanh thiếu niên và 5% các mục sư thừa nhận mình bị nghiện nội dung khiêu dâm.
• 87% các mục sư xem những nội dung khiêu dâm cảm thấy vô cùng xấu hổ về hành vi này.
• 55% các mục sư xem những nội dung khiêu dâm sống trong sự sợ hãi liên tục về việc bị phát hiện.
• Đại đa số các lãnh đạo thuộc linh đang vật lộn với nội dung khiêu dâm nói rằng điều này ảnh hưởng vô cùng tiêu cực đến mục vụ của họ.(4)
Ở Việt Nam chúng ta chưa có những điều tra về chủ đề này, nhưng xét về tiếp cận với internet, chúng ta chẳng kém Mỹ. Việt Nam luôn nằm trong tốp 10 quốc gia có lượng tìm kiếm với từ khoá sex hàng đầu thế giới trên Google (Lưu ý: Mỹ không có trong nhóm này). Năm 2009, chúng ta đứng ở vị trí thứ nhất, một kỷ lục mà chắc chẳng ai tự hào, nhưng tụt xuống vị trí thứ 8 vào năm 2014.(5) Nếu làm một nghiên cứu tương tự như ở Mỹ thì kết quả sẽ như thế nào? Chắc chắn những tỷ lệ đó sẽ không là 0% đâu. Phần chìm của tảng băng có thể rất lớn.
Trở lại với câu hỏi quan trọng ở phần này “Làm thế nào chúng ta có thể xây dựng được một văn hoá cởi mở, chân thực và có tính khai trình trong hội thánh?” Đầu tiên, cần phải nhấn mạnh rằng trách nhiệm xây dựng văn hoá ở mọi tổ chức luôn thuộc về những người lãnh đạo. Hội thánh không phải là ngoại lệ. Các mục sư, người lãnh đạo hội thánh phải là những người hiểu vấn đề và đi tiên phong trong việc định hình cách nghĩ và thực hành trong hội thánh. Chúng tôi xin phép đưa ra vài gợi ý như sau:
1. Dạy dỗ cho dân sự của Chúa về lợi ích của sự chân thực và mối nguy hiểm của giả hình.
2. Dạy dỗ cho dân sự của Chúa về sự nên thánh và chiến thắng tội lỗi, trong đó có vai trò của việc xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau.
3. Dạy dỗ cho dân sự của Chúa về tình yêu thương trong hội thánh, với sự chia sẻ và mang vác gánh nặng cho nhau trong vòng các anh chị em.
4. Dạy dỗ để dân sự của Chúa hiểu rằng có vấn đề là thực tế của cuộc sống này, tin cậy Chúa trong các vấn đề của cuộc sống là điều con cái Chúa cần phải học. Việc chia sẻ vấn đề sẽ giúp chúng ta học sự tin cậy Chúa tốt hơn.
5. Dạy dỗ để dân sự của Chúa hiểu rằng chúng ta vẫn phải chiến đấu với tội lỗi hàng ngày, và khi có các anh chị em kề vai sát cánh với chúng ta trong trận chiến này, chúng ta sẽ dễ dàng chiến thắng hơn. Xưng tội với Đức Chúa Trời và với nhau là phương cách Chúa ban cho chúng ta để chiến thắng.
6. Kết nối các anh chị em thành những cặp dìu dắt và những nhóm nhỏ để tạo điều kiện thuận lợi cho sự chia sẻ, xưng tội và cầu nguyện với nhau.
7. Dạy dỗ dân sự của Chúa về khai trình: mục đích của khai trình là chiến thắng tội lỗi, khai trình không có nghĩa là nói về tội lỗi của mình với tất cả mọi người.
8. Bản thân thực hành sự chia sẻ và khai trình trong cuộc sống của mình. Khai trình vừa giảm thiểu nguy cơ rơi vào bẫy sống giả hình, vừa tạo cơ hội cho các anh chị em khác giúp mình mang gánh nặng. Như vậy chính chúng ta tạo điều kiện để các anh chị em vâng lời Chúa.
Phạm Quang Nam
Vài dòng về tác giả: Anh Phạm Quang Nam được Chúa Giê-su ban ân điển để ăn năn và nhận biết Ngài vào năm 1994, khi còn đang học tại Ba Lan. Vào năm 1998 anh Nam về Việt Nam và phục vụ Chúa tại Hà Nội từ đó đến nay.
*Quan điểm của bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc
[1] Từ dùng trong nguyên ngữ Hy Lạp của Kinh Thánh Tân Ước được dịch là giả hình sang tiếng Việt là hypokrisis, chỉ hành động biểu diễn của diễn viên trên sân khấu. Hypokrites, người giả hình, là người biểu diễn trên sân khấu, là diễn viên đóng vai một người khác.
[2] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Phần 6 “Người Việt Nam”.
[3] Lý thuyết chiều văn hoá của Hofstede có thể được tham khảo thêm tại https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_thuy%E1%BA%BFt_chi%E1%BB%81u_v%C4%83n_h%C3%B3a_c%E1%BB%A7a_Hofstede
[4] Website của Barna Group https://www.barna.com/the-porn-phenomenon/#.VqZoN_krIdU, truy cập ngày 07/10/2019 (những chỗ in đậm tự thêm để nhấn mạnh).
[5] https://ictnews.vn/internet/luong-tim-kiem-voi-tu-khoa-sex-o-vn-cao-thu-8-the-gioi-122066.ict, truy cập ngày 07/10/2019.