Sự Tiếp Diễn Của Các Ân Tứ Thuộc Linh
Tóm tắt
Trước hết, bài viết này xác định phạm vi của cuộc tranh luận về việc Cơ Đốc nhân ngày nay có nên ao ước các ân tứ thuộc linh, đặc biệt là ân tứ nói tiên tri hay không. Sau đó, tác giả đưa ra ba lập luận chính cho lập trường Ân tứ và kết luận bằng cách đưa ra và đáp trả lập luận mạnh nhất của quan điểm rằng các ân tứ đã ngưng lại hay chấm dứt (cessationism).
Tôi rất vinh hạnh khi mở ra cuộc tranh luận này về các ân tứ thuộc linh, với Tom Schreiner và những cá nhân khác mà tôi đã học được rất nhiều trong rất nhiều lĩnh vực.1 “Người đầu tiên trình bày lý lẽ có vẻ hợp lý, cho đến khi bị chất vấn.” (Châm ngôn 18:17, Bản Phổ thông).
Bởi vì cuộc trao đổi này dựa trên hai cuốn sách chứ không phải một cuốn, và bởi lẽ cuốn sách của Tom và của tôi đưa ra những kết luận khác nhau về sự tiếp diễn của các ân tứ thuộc linh (charismata), nên một cuộc tranh luận như thế này rất dễ lặp lại.2 Để tránh điều đó xảy ra, trong bài viết này, tôi định làm ba điều. Một là tôi sẽ cố gắng xác định phạm vi của cuộc tranh luận càng đơn giản càng tốt để không xảy ra tình trạng ông nói gà, bà nói vịt. Hai là tôi sẽ trình bày về trường hợp của người Ân tứ theo cách tích cực, với điều mà tôi cho là ba lập luận then chốt. Ba là tôi sẽ tóm tắt lập luận mạnh nhất cho quan điểm rằng các ân tứ thuộc linh đã chấm dứt, rồi thách thức nó trước khi đưa ra kết luận. Tôi sẽ nói đến các lập luận của các quan điểm đã chấm dứt khác sau, khi chúng ta xét đến cuốn sách của Tom.
1. Phạm vi của cuộc tranh luận
Để cô đọng lại cuộc tranh luận trong chỉ một câu thì câu đó là thế này: Các môn đồ ngày nay có được định để ao ước các ân tứ thuộc linh, đặc biệt là ân tứ nói tiên tri hay không? Tôi đoan chắc rằng Tom Schreiner và Ligon Duncan sẽ nói không, còn Sam Storms và tôi sẽ nói có. Tốt nhất là nên chú trọng vào ân tứ nói tiên tri để thảo luận cho tập trung. Chúng ta không tập trung vào sự tiếp diễn của ἀπόστολοι (chức vụ sứ đồ – ND), vì tất cả chúng ta đều đồng ý rằng những người tận mắt chứng kiến sự phục sinh đã qua đời (nghĩa của ἀπόστολοι trong Công vụ 1:21-26 và 1 Cô-rinh-tô 9:1; 15:1-9) còn các giáo sĩ hoặc sứ giả lưu động thì chưa (nghĩa của ἀπόστολοι trong 2 Cô-rinh-tô 8:23 và có lẽ là Rô-ma 16:7). Cũng cần chú ý rằng trong những phân đoạn mà Phao-lô thúc giục các tín đồ theo đuổi các ân tứ, ông không đưa chức sứ đồ vào trong đó. Tuy chúng ta có thể bất đồng về sự tiếp diễn của các ân tứ nói tiếng lạ, thông giải, chữa lành, làm phép lạ và phân biệt các thần (tuy cũng không nhiều lắm, rồi chúng ta sẽ thấy!) nhưng tôi nghĩ tất cả chúng ta đều đồng ý rằng vấn đề then chốt là sự tiếp diễn của ân tứ nói tiên tri. Các môn đồ có nên “ao ước các ân tứ thuộc linh, đặc biệt là ân tứ nói tiên tri hay không”? Khi làm sáng tỏ điều này, chúng ta sẽ khỏi bị lạc trong bụi rậm.
2. Lập trường Ân tứ
Với người Ân tứ, lý do đầu tiên để nói có là lý do về thông diễn học, hay thích kinh học (hermeneutics) – tức là Phao-lô nói vậy. Nghe thì có vẻ nông cạn và không đáng để những độc giả sành sỏi để ý đến, nhưng thực ra lại rất quan trọng. Đôi khi, tranh luận giải kinh về việc theo đuổi các ân tứ có vẻ giống một trận đấu bất phân thắng bại, người chủ trương tiếp diễn chỉ ra rằng Tân Ước không bao giờ nói các ân tứ sẽ ngưng lại, còn người chủ trương chấm dứt đáp trả rằng Kinh thánh cũng không bao giờ nói là chúng sẽ không ngưng. Họ lập luận như thể những chỉ dẫn của Phao-lô về việc theo đuổi các ân tứ là không liên quan, trong khi rõ ràng là có. “Hãy ước ao những ân tứ cao trọng hơn” (1 Cô 12:31). “Hãy ao ước các ân tứ thuộc linh, nhất là ân tứ nói tiên tri” (14:1). “Hãy ao ước ân tứ nói tiên tri, và đừng ngăn trở việc nói các tiếng lạ” (14:39). “Chúng ta có các ân tứ khác nhau, tùy theo ân điển Chúa ban: Người được ân tứ nói tiên tri, hãy nói theo lượng đức tin” (Rô-ma 12:6). “Chớ dập tắt Thánh Linh; chớ khinh dể các lời tiên tri. Hãy xem xét mọi việc. Điều gì tốt đẹp thì giữ lấy” (1 Tê 5:19-21). Với sự rõ ràng và liên tục của chỉ dẫn mang tính sứ đồ này, và với việc chúng ta thường cho rằng những đòi hỏi của Tân Ước là dành cho mình, trừ khi ngữ cảnh chỉ rõ là không phải như vậy, người Ân tứ tin rằng nghĩa vụ chứng minh sẽ đặt nặng trên những người nói rằng những chỉ dẫn của Phao-lô không áp dụng với chúng ta, chứ không phải trên những người nói có. (Tôi có xu hướng gọi điều này là Giả định về sự Vâng phục).
Tất nhiên là đôi khi nghĩa vụ chứng minh này có thể được đáp ứng. Khi đọc cả sách Tin lành theo Ma-thi-ơ, chúng ta nhận ra rằng việc “đừng đi vào vùng dân ngoại” (10:5) không áp dụng với những Cơ Đốc nhân sống trước khi có mạng lệnh “hãy đi khiến muôn dân trở nên môn đồ Ta” (28:19). Hay không có Cơ Đốc nhân nào trong lịch sử lặn lội đến Trô-ách và tìm chiếc áo choàng của Phao-lô – trong thư của Phao-lô, chúng ta thấy rõ rằng yêu cầu của ông chỉ áp dụng với Ti-mô-thê mà thôi. Nhưng nếu một chỉ dẫn thường xuyên xuất hiện với nhiều hội thánh khác nhau, đôi khi khá dài, và trong phân đoạn đó không nói rõ là chỉ dẫn này đã bị thay thế và tương đối hóa thì chúng ta cần thừa nhận rằng nó áp dụng với cả chúng ta, và đòi hỏi nghĩa vụ chứng minh nơi những người nói rằng không phải như vậy. (Đến một thời điểm thích hợp, chúng ta sẽ nhìn vào những nỗ lực để đáp ứng nghĩa vụ chứng minh này, hoặc thậm chí tranh luận rằng nghĩa vụ chứng minh này nằm ở đâu đó). Đó là lập luận thích kinh học cho các ân tứ.
Lập luận thứ hai khiến một số người ngạc nhiên là lập luận về lịch sử: một trong những lý do chính đáng nhất để nghĩ rằng các ân tứ kỳ diệu vẫn tiếp diễn sau khi các sứ đồ qua đời là thực tế rằng theo nhiều giáo phụ Hội thánh thì chúng có tiếp diễn. Trong bối cảnh của các cuộc tranh luận đương thời thì ý này thường bị lu mờ, hoàn toàn không phải bởi vì ân tứ gây chia rẽ nhất trong vài trăm năm qua, tức ân tứ nói tiếng lạ, là ân tứ kém rõ ràng nhất nơi các giáo phụ. Nhưng tôi không biết một tác giả nào trước Chrysostom hay Augustine đưa ra lập luận rằng bất cứ ân tứ nào đã chấm dứt – và lập luận được nhiều người biết đến của Augustine chỉ nói đến ân tứ nói tiếng lạ, và cần được đặt cạnh luận bàn mở rộng của ông về các phép lạ và sự chữa lành trong cuốn Thành của Đức Chúa Trời (the City of God).
Justin Martyr khẳng định “Các ân tứ tiên tri vẫn còn với chúng ta đến tận ngày nay.”3 Irenaeus nói: “Những người là môn đồ Ngài trong lẽ thật” đã làm các phép lạ theo ân tứ đã ban cho họ, trong đó có đuổi quỷ, thấy khải tượng, thốt ra những lời tiên tri, chữa lành người bệnh, khiến người chết sống lại, nói các ngôn ngữ khác và công bố những điều mầu nhiệm của Đức Chúa Trời.4 (Eusebius đã dùng trích dẫn này để chứng minh rằng “các ân tứ khác nhau vẫn còn giữa vòng những người xứng đáng, ngay cả trước thời điểm đó.”5) Tertullian đấu khẩu với Marcion, giống như Ê-li trên Núi Cạt-mên, bằng cách thách thức vị thần của ông ta suy đoán những điều sẽ đến, phơi bày những điều ẩn giấu trong lòng, thông giải tiếng lạ hoặc nói tiên tri trước khi khẳng định rằng “tất cả những dấu lạ này đều sẵn có ở phía tôi mà không gặp trở ngại nào”6 Origen cho rằng phạm vi của các ân tứ đã giảm sút nhưng chắc chắn là không biến mất: “giữa vòng Cơ Đốc nhân vẫn lưu giữ những dấu tích của việc Đức Thánh Linh xuất hiện trong hình một con chim bồ câu. Họ đuổi các ác linh, chữa lành nhiều bệnh, biết trước những sự kiện nhất định theo ý muốn của Ngôi Lời.”7 Thánh Cả Basil nói: “Thánh Linh soi sáng cho tất cả, truyền cảm hứng cho các nhà tiên tri, ban sự khôn ngoan cho các nhà lập pháp, thánh hóa các thầy tế lễ, trao quyền cho các vua, trau dồi người công chính, đề cao người khôn ngoan, tích cực trong các ân tứ chữa lành, ban sự sống cho kẻ chết, giải phóng những người bị cầm buộc, biến những ngoại kiều thành con cái được nhận nuôi trong nhà.”8 Giám mục Cyril thành Giê-ru-sa-lem giải thích “Ngài dùng lưỡi của một người cho sự khôn ngoan; linh hồn của người khác thì Ngài soi sáng bằng lời tiên tri; với người khác thì Ngài ban cho quyền năng để đuổi các quỷ.”9 Và Augustine – như chúng ta đã biết – đã liệt kê một loạt những sự chữa lành phi thường từ chứng mù lòa, rò hậu môn, ung thư vú, gút, liệt, thoát vị, bị quỷ ám, thậm chí tử vong.10
Từ góc độ lịch sử đơn thuần thì ý tưởng rằng các ân tứ kỳ diệu đột ngột dừng lại khi sứ đồ cuối cùng qua đời là điều không thể bảo vệ được. Tất nhiên là có những người ủng hộ sự chấm dứt (như Tom) thừa nhận ý này, và coi rằng ân tứ nói tiên tri và các ân tứ kỳ diệu khác dần chấm dứt trong bốn thế kỷ đầu. Nhưng sự nhượng bộ này đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì nó cho thấy rằng không có xung đột tất yếu giữa sự dạy dỗ nền tảng, không thể sai lầm, mang tính sứ đồ và sự hiểu biết tiên tri hiện thời. Đó là ý mà người Ân tứ đã đưa ra trong nhiều thập kỷ.
Lập luận thứ ba là về góc độ lai thế học (eschatological). Các ân tứ Thánh Linh, đặc biệt là ân tứ nói tiên tri được các sứ đồ coi là đặc điểm của cả kỷ nguyên giữa ngày Ngũ tuần và sự tái lâm, sự đến của Thánh Linh và sự trở lại của Đấng Christ. Cho nên nếu chúng ta vẫn còn sống giữa giai đoạn mở đầu và hoàn tất của vương quốc – giữa ngày D và ngày VE (ngày đặt nền móng cho thắng lợi và ngày chiến thắng chính thức của phe Đồng Minh trước Đức Quốc Xã – N.D.) theo phép loại suy nổi tiếng của Cullmann – chúng ta cần tiếp tục chờ đợi, và theo đuổi tất cả các ân tứ thuộc linh.11
Sự chờ đợi này rất rõ ràng vào chính ngày Ngũ tuần. Ngay đầu bài giảng đầu tiên của một Cơ Đốc nhân, Phi-e-rơ đã liên hệ rõ giữa thời kỳ cuối cùng – sự tuôn đổ của Thánh Linh trên mọi dân – và ân tứ nói tiên tri; điều sau là biểu hiện rõ ràng của điều trước. (Vì người Ân tứ thích chỉ ra là Phi-e-rơ không nói rằng “Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thánh Linh Ta trên mọi loài xác thịt, và họ sẽ nói tiên tri – nhưng sau đó Ta sẽ không, và họ sẽ không làm như vậy.”) Khi Phao-lô cảm tạ Chúa vì người Cô-rinh-tô, ông nhắc họ rằng “lời làm chứng về Đấng Christ cũng đã được xác lập trong anh em để anh em không thiếu bất cứ ân tứ thuộc linh nào, trong lúc chờ đợi sự hiện ra của Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ. Đức Chúa Trời sẽ giữ anh em bền vững cho đến cuối cùng, để không bị khiển trách trong ngày của Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ” (1 Cô 1:6-8). Nói cách khác là các ân tứ thuộc linh là của họ trong khi họ chờ đợi Chúa Giê-su hiện ra. Tương tự như vậy với đoạn kết nổi tiếng của 1 Cô-rinh-tô 13, câu 8-10: “Tình yêu thương không bao giờ suy tàn. Các lời tiên tri sẽ hết, ân tứ nói tiếng lạ sẽ ngưng, sự hiểu biết sẽ chấm dứt. Vì chúng ta hiểu biết có giới hạn, nói tiên tri cũng có giới hạn; nhưng khi sự toàn hảo đã đến, thì sự bất toàn sẽ qua đi.” Phao-lô tin vào sự chấm dứt của các ân tứ, nhưng ông tin rằng nó sẽ xảy ra “khi sự toàn hảo đã đến” và phát biểu sự tương phản theo bốn cách: bất toàn và toàn hảo, trẻ con và trưởng thành, thấy một cách mập mờ và thấy rõ, hiểu biết một phần và toàn phần. Tuy đôi khi có những người lên gân cốt giải kinh để cố gắng chứng minh điều ngược lại nhưng điều này thật sự chỉ có thể nói đến sự tái lâm của Đấng Christ, như Tom đã chỉ ra và chỉ đúng trong sách của anh.12
Khi đọc Phao-lô với định hình lai thế học này trong đầu – nhận ra rằng các tín đồ sống trong “những ngày cuối cùng”, giữa ngày Ngũ tuần và Sự tái lâm, với đặc điểm là cả món quà Thánh Linh và các ân tứ Thánh Linh cho đến khi Đấng Christ trở lại – chúng ta thấy điều này ở khắp nơi. Chúng ta thấy Phao-lô cổ vũ rằng “phải đầy dẫy Thánh Linh”, với một trong những đặc điểm là hát “những linh khúc”, được ban cho khi “những ngày là xấu.” Chúng ta để ý thấy sự hô hào sử dụng các ân tứ thuộc linh (trong đó có ân tứ nói tiên tri) trong Rô-ma áp dụng với thời kỳ giữa sự phục sinh và sự trở lại của Chúa Giê-su: thời kỳ mà trong đó các tín đồ không được khuôn rập theo đời này, vì sự cứu rỗi đã gần với họ hơn. Chúng ta thấy mệnh lệnh chớ dập tắt Thánh Linh hoặc khinh dể lời tiên tri trong 1 Tê-sa-lô-ni-ca xuất hiện trong bối cảnh sống đời sống thánh khiết khi chúng ta chờ đợi Chúa Giê-su trở lại. Một số phân đoạn chỉ rõ hơn những phân đoạn khác. Nhưng dường như rõ ràng là Phao-lô chờ đợi các ân tứ (đặc biệt là nói tiên tri và nói tiếng lạ) vẫn ở lại với Hội thánh cho đến khi Đấng Christ đến; khi đó thì chúng không còn cần đến nữa.
Nói thật gọn lại thì đó là lập luận Ân tứ cho việc tiếp tục của các ân tứ thuộc linh. Về mặt lai thế học, chúng ta chờ đợi chúng tiếp tục; về mặt lịch sử thì chúng có tiếp tục; và về mặt thích kinh học thì chúng ta cần ao ước chúng, đặc biệt là ân tứ nói tiên tri, vì Phao-lô nói như vậy.
3. Phê bình mạnh nhất của người theo quan điểm đã chấm dứt
Phê bình mạnh nhất của lập trường này, và cách tốt nhất để cố gắng đáp ứng trách nhiệm chứng minh mà tôi đã nói đến, là lập luận từ tính vô ngộ (không thể sai lầm) của lời tiên tri trong Tân Ước, theo như các tác giả như Richard Gaffin và Tom Schreiner trình bày. Nếu sự tiên trong Tân Ước là vô ngộ và mang tính nền tảng, đồng thời liên hệ đến sự chứng kiến vô ngộ và mang tính nền tảng của các sứ đồ thì không thể chấp nhận tính Kinh thánh của những khẳng định về lời tiên tri không vô ngộ ngày nay – “Tôi nghĩ là Chúa đang phán điều này, nhưng tôi có thể sai, nên lời của tôi cần được cân nhắc và kiểm chứng” hay đại loại như vậy. Cho nên dù chúng ta có nghĩ như thế nào về hiện tượng này, và gọi nó bằng bất cứ cách nào (ấn tượng, sự nhìn nhận, trực giác, sự điên rồ!) thì nó cũng không phải ý nghĩa của προφητεύω trong Tân Ước. Tất nhiên là có nhiều lập luận của các chủ trương đã chấm dứt khác, nhưng như tôi đã nói từ đầu, chúng ta sẽ giải quyết chúng sau.
Logic của lập luận này như sau:
1. Việc tiên tri trong Cựu Ước là sự mặc khải vô ngộ từ Chúa. Ngoài những khẳng định rằng “Đức Giê-hô-va phán”, các phân đoạn then chốt ở đây là Phục truyền 13 và 18, đặc biệt là 18:22: “Khi có một kẻ tiên tri nhân danh Đức Giê-hô-va mà nói, nhưng lời người đó nói không xảy đến và không ứng nghiệm thì đó không phải là lời mà Đức Giê-hô-va đã phán. Kẻ tiên tri đó đã nói cách tự phụ, anh em đừng sợ người ấy.”
2. Không thấy chỉ ra sự thay đổi giữa Cựu và Tân Ước về điểm này. Vì thế, chúng ta cần thừa nhận rằng sự tiên tri trong Tân Ước cũng là sự mặc khải vô ngộ từ Chúa.
3. Phao-lô mô tả hội thánh “được xây dựng trên nền của các sứ đồ và các nhà tiên tri” (Ê-phê-sô 2:20), một điều chỉ ra rằng sự tiên tri trong Tân Ước không chỉ vô ngộ mà còn mang tính nền tảng.
4. Vì vậy, cần coi những lời cổ vũ theo đuổi các ân tứ thuộc linh, đặc biệt là ân tứ nói tiên tri là điều dành riêng cho thế kỷ đầu (hoặc bốn thế kỷ đầu), và không còn ràng buộc trên hội thánh ngày nay.
Nếu ba bước đầu đúng hết thì bước thứ tư theo sau. Nhưng có những lý lẽ giải kinh hợp lý để thách thức cả ba.
(1) Có phải sự tiên tri trong Cựu Ước luôn là sự mặc khải vô ngộ từ Chúa không, Iain Duguid trong Tập sách Tri ân Vern Poythress đã chứng minh rằng trong tất cả các trường hợp mà từ ‘tiên tri’ hoặc ‘nói tiên tri’ được sử dụng trong Kinh thánh tiếng Hê-bơ-rơ, “không hề có gợi ý nào về việc bất cứ ai nghe hoặc được hướng dẫn bởi những tuyên bố có căn cứ” (chẳng hạn như Sáng 20:7; Dân 11:25-29; 1 Sa 10:6; 19:20-23; 1 Vua 18:4; 2 Vua 2:3; 4:38; 6:1; 9:1; 17:13; 1 Sử 25:1-3; 29:29; 2 Sử 9:29; 12:15, 13:22).13 Nói đúng hơn là người được nói đến có thể tham gia vào sự cầu nguyện, hoặc nói trong trạng thái xuất thần, hoặc dẫn thờ phượng, hoặc viết lịch sử triều đại hoặc không một điều nào trên đây. Trong những trường hợp như vậy, Duguid lập luận “lời tiên tri không phải để truyền đạt thông tin được Đức Chúa Trời truyền cảm hứng mà để xác định những cá nhân được Đức Chúa Trời ngự trên họ.” Vì vậy, có thể (thậm chí là thông thường) việc nói tiên tri trong Cựu Ước không bao hàm sự mặc khải vô ngộ từ Chúa, mà để chỉ ra những người mà Thánh Linh Chúa đang vận hành trên họ. Đây chính là điều đứng sau lời thách thức nổi tiếng của Môi-se trong Dân số ký 11:29: “Có phải anh ganh tị giùm tôi không? Ôi! Ước gì tất cả con dân của Đức Giê-hô-va đều là những nhà tiên tri và Đức Giê-hô-va ban Thần của Ngài cho họ!” chứ không phải ông đòi thêm sự mặc khải vô ngộ từ Chúa.
(2) Tất nhiên, đây đúng là điều Chúa làm trong ngày Ngũ tuần. Và đó là nghĩa mà trong đó có sự thay đổi đáng kể giữa Cựu và Tân Ước khi nói đến ân tứ nói tiên tri: không phải là sự tiên tri bỗng dưng trở nên có thể sai lầm, mà là phạm vi của nó được mở rộng đáng kể (“Ta sẽ đổ Thánh Linh Ta trên mọi xác thịt; con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên tri”, Công vụ 2:17), và mục đích của điều đó liên hệ rõ với kỷ nguyên mới của Thánh Linh, trong đó Chúa sẽ đặt Thánh Linh Ngài trên mọi tín đồ, như Môi-se từng cầu xin suốt bấy nhiêu năm trước đó. Chúng ta có thể tranh luận về việc liệu A-ga-bút có nhầm lẫn trong một số chi tiết nhất định ở Công vụ 21:10-11 hay không, và có nhiều người giải nghĩa ở cả hai bên. Nhưng điểm then chốt trong Công vụ là nhiều sự tiên tri không hề giống với Phục truyền 18, trong đó hoặc là chúng ta có một nhà tiên tri mới như Môi-se, hoặc là một kẻ mạo danh nhân danh các thần khác mà nói. Thuật ngữ này được sử dụng rộng hơn thế nhiều: nó có thể nói đến việc công bố những công việc quyền năng của Chúa với những người khác, ca tụng Đức Chúa Trời, khích lệ và làm cho các anh em thêm vững mạnh, hoặc đơn giản là nói theo những cách cho thấy một cá nhân được đầy dẫy Thánh Linh (2:11; 15:32; 19:6; 21:9). Sự đa dạng đó cũng có trong 1 Cô-rinh-tô 12–14, rồi chúng ta sẽ thấy.
(3) Chúng ta cũng phải đặt câu hỏi: Ê-phê-sô 2:20 có chỉ ra rằng mọi lời tiên tri trong Tân Ước đều là sự mặc khải vô ngộ, đến từ Chúa và mang tính nền tảng không? Rõ ràng là trong câu này (và 3:5), Phao-lô đang nói đến vai trò của các tiên tri, dù chúng ta có đồng tình với quan điểm của Grudem về ngữ pháp hay không (Tom và tôi đều không)14 . Nhưng đây có phải là mục đích duy nhất của sự tiên tri, đến nỗi mọi điều không “mang tính nền tảng” đều không đủ tiêu chuẩn là “lời tiên tri” chăng? Rất thú vị là Richard Gaffin nói rõ những câu/đoạn có ưu thế giải thích theo quan điểm của ông: “Như một hướng dẫn chung để giải thích, cần coi trọng tầm quan trọng mang tính quyết định và kiểm soát của Ê-phê-sô 2:20 (trong ngữ cảnh của câu đó). Câu này và các phân đoạn khác nói đến sự tiên tri như 1 Cô-rinh-tô 14 không có mức độ quan trọng giống nhau về mặt giải kinh…Ê-phê-sô 2:20 đưa ra sự khái quát bao hàm tất cả những khẳng định khác về sự tiên tri trong Tân Ước.”15 Với điều này, chúng ta cần đặt câu hỏi: thật vậy ư? Một lần được đề cập trong Ê-phê-sô, trong vế phụ của một câu chủ yếu nói đến sự hiệp nhất trong hội thánh, lại có giá trị hơn cả ba chương về các ân tứ trong 1 Cô-rinh-tô ư? Tại sao vậy?
Nếu tạm dừng phán xét điều đó một chút, và xét riêng đến 1 Cô-rinh-tô thì chúng ta sẽ có cái nhìn đa dạng hơn nhiều về mục đích của lời tiên tri. Nó được ban ra để khích lệ, an ủi và xây dựng các tín đồ khác tại hội thánh địa phương (14:3). Nó cáo trách người không tin (14:24), làm chứng cho sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong hội chúng (14:25), khiến hội chúng có thể học hỏi và được khích lệ (14:31). Nếu chúng ta đưa thêm 1 Ti-mô-thê vào thì lời tiên tri cũng có thể đưa ra sự chỉ dẫn cá nhân cho chức vụ (1:18) và liên quan đến việc chỉ định chức trưởng lão (4:14). Do đó, một số cuốn giải kinh quan trọng về 1 Cô-rinh-tô hiện có đưa định nghĩa của Anthony Thiselton vào làm tiêu chuẩn:
Sự tiên tri – như một ân tứ của Đức Thánh Linh – kết hợp giữa cái nhìn mục vụ sâu sắc vào nhu cầu của con người, cộng đồng và hoàn cảnh với khả năng giải quyết những điều này với một câu nói hoặc một phần trình bày dài hơn mà Chúa ban (dù là tự phát hay được chuẩn bị với sự phán xét, hoặc an ủi, nhưng cuối cùng thì đều gây dựng người nhận…Tuy người nói tin rằng câu nói hoặc phần trình bày đó đến từ Đức Thánh Linh nhưng sai lầm có thể xảy ra, và vì các tín đồ, trong đó có các mục sư hoặc nhà tiên tri, vẫn có thể sai lầm nên những khẳng định trong lời tiên tri phải được cân nhắc và kiểm chứng.16
Không điều nào trên đây nhằm phủ nhận rằng Ê-phê-sô 2:20 và 3:5 nói về sự mặc khải mang tính nền tảng từ Chúa. Nó chỉ phủ nhận rằng những câu đó đưa ra một khuôn khổ để gò ép mọi cách dùng khác của từ này. Lý do khiến đôi khi chúng ta nói đến sứ đồ với chữ S viết hoa hoặc viết thường, Giáo sư với chữ G viết hoa và viết thường, hoặc Nhà truyền giảng Tin lành với chữ N viết hoa và viết thường, là chúng ta nhận biết rằng những ân tứ đó đến theo nhiều cách khác nhau và vì những mục đích khác nhau. Chúng ta biết là có sự khác biệt giữa các loại ἀπόστολοι trong Công vụ 1 và 2 Cô-rinh-tô 8. Chúng ta cho rằng có sự khác biệt giữa διδάσκαλοι mà Hê-bơ-rơ 5:12 nói rằng tất cả chúng ta đều cần khao khát trở thành, và διδάσκαλοι mà Gia-cơ 3:1 nói rằng chúng ta không nên khao khát trở thành. Thậm chí có thể có sự khác biệt giữa dạng ὐαγγελιστής của Phi-líp và của Ti-mô-thê (Công vụ 21:8, 2 Ti-mô-thê 4:5). Nên đúng là προφῆται trong Ê-phê-sô 2-3 đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ hội thánh sau đó. Những điều trong 1 Cô-rinh-tô 12-14 có phải như vậy hay không (tôi đã cố tình bỏ qua các dẫn chứng trong Rô-ma và 1 Tê-sa-lô-ni-ca, trong đó những điều tương tự là đúng) cần được chỉ rõ chứ không phải giả định.
4. Kết luận
Vì vậy, tôi nghĩ rằng có những lập luận hợp lý về thích kinh học, sử học và lai thế học cho lập trường Ân tứ, và rằng lập luận mạnh nhất chống lại nó cuối cùng đã sụp đổ. Nhưng tôi muốn kết thúc bằng một câu chuyện từ một vị mục sư của một hội thánh Báp-tít lớn tại Luân Đôn. Theo như tôi được biết, Charles Spurgeon không bao giờ dùng từ “tiên tri” để nói đến dạng hiện tượng này, tuy ông có nói về sự mặc khải, lời phán của Chúa và sự vận hành của Thánh Linh. Nhưng điều này đưa ra một lát cắt lịch sử về dạng thức mà Phao-lô và có lẽ là cả các giáo phụ hội thánh khác nhau mà tôi đã trích dẫn trước đó nói đến. Ông viết:
Khi đang giảng trong hội trường, có lần, tôi cố tình chỉ vào một người nam ở giữa đám đông và nói: “Ở đây có một người là thợ đóng giày; anh ta mở cửa hàng vào các ngày Chúa Nhật, nó đã mở cửa vào sáng Sa-bát tuần trước, anh ta lấy chín xu, và lời được bốn xu từ đó; linh hồn anh ta bị bán cho Sa-tan với giá bốn xu!”
Người này giải thích:
Hôm đó đúng là tôi đã lấy chín xu, và lời được bốn xu; nhưng tôi không biết sao ông ấy lại biết điều đó. Rồi tôi thấy bị đánh động rằng chính Chúa đã nói với linh hồn tôi qua ông ấy, nên tôi đã đóng cửa hàng vào Chúa Nhật sau đó. Ban đầu, tôi sợ không dám đến nghe ông ấy nữa, e ông ấy lại nói thêm với mọi người về tôi; nhưng sau đó tôi đã đi, Chúa đã đến cùng tôi và cứu rỗi linh hồn tôi.
Spurgeon lại nói:
Tôi có thể kể ra cả chục trường hợp tương tự, khi tôi chỉ vào ai đó trong hội trường mà không hề biết chút gì về người ấy, hay nghĩ rằng những gì mình nói là đúng, chỉ là tôi tin rằng tôi được Thánh Linh cảm động để nói như vậy; có thể nói là tôi rất ấn tượng khi những người đó đã đi và nói với bạn bè mình rằng: “Hãy đến xem một người đã nói đúng hết tất cả những gì tôi đã làm.”17
Hãy ao ước các ân tứ thuộc linh, nhất là ân tứ nói tiên tri.
Andrew Wilson, tác giả bài viết là mục sư giảng dạy tại Hội thánh King’s Church London và là tác giả của cuốn Spirit and Sacrament: An Invitation to Eucharismatic Worship.
– Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc –
*Quan điểm của bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đội ngũ Ba-rúc
Link bài viết gốc: https://www.thegospelcoalition.org/themelios/article/the-continuation-of-the-charismata/
1. Phiên bản trước đó của bài viết này được nêu tại Cuộc gặp Thường niên của Hiệp hội Thần học Tin lành (Denver, Colorado, Hoa Kỳ) trong phần Quan điểm về các Ân tứ Thuộc linh do Patrick Schreiner điều phối và được Tom Schreiner cùng Ligon Duncan phản hồi.
2. Thomas R. Schreiner, Spiritual Gifts: What They Are and Why They Matter (Nashville: B&H, 2018); Andrew Wilson, Spirit and Sacrament: An Invitation to Eucharismatic Worship (Grand Rapids: Zondervan, 2019).
3. Justin Martyr, Dialogue with Trypho 82.
4. Irenaeus, Against Heresies 2.32.4; 5.6.1.
5. Eusebius, Ecclesiastical History 5.7.1–6; so với 5.17.4, trích lời Apollinaris: ‘vì các sứ đồ nghĩ rằng ân tứ tiên tri cần tiếp diễn trong cả Hội thánh cho đến khi sự cuối cùng đến.’
6. Tertullian, Against Marcion, 5.8.
7. Origen, Against Celsus 1.2, 46, 67; so với 2:8; 3:3; 7.8; 8:58. Đôi khi người ta trích lời Origen để ủng hộ quan điểm đã chấm dứt, nhưng trong Against Celsus, dường như rõ ràng là ông cho rằng các dấu lạ và ân tứ kỳ diệu, trong đó có ân tứ nói tiên tri, chữa lành và đuổi quỷ đã giảm sút kể từ thời các sứ đồ, nhưng không ngừng lại.
8. Basil, Homily 3, được dịch trong Mark DelCogliano, St Basil the Great: On Christian Doctrine and Practice (Yonkers, NY: St Vladimir’s Seminary Press, 2013), 238.
9. Cyril of Jerusalem, Catechetical Lectures 16.12.
10. Augustine, City of God 22.8.
11. Oscar Cullmann, Christ and Time: The Primitive Christian Conception of Time and History, trans. Floyd V. Filson, rev. ed. (London: SCM, 1962).
12. Schreiner, Spiritual Gifts, 147–53
13. Iain M. Duguid, ‘What Kind of Prophecy Continues? Defining the Differences Between Continuationism and Cessationism’, trong Redeeming the Life of the Mind: Essays in Honor of Vern Poythress, ed. John Frame, Wayne Grudem and John Hughes (Wheaton, IL: Crossway, 2017), 112–28.
14. Wayne Grudem, The Gift of Prophecy in the New Testament and Today, 2nd ed. (Wheaton, IL: Crossway, 2000), 329–46.
15. Richard Gaffin, Perspectives on Pentecost: New Testament Teaching on the Gifts of the Holy Spirit (Phillipsburg, NJ: Presbyterian and Reformed, 1979), 96.
16. Anthony Thiselton, The First Epistle to the Corinthians, NIGTC (Grand Rapids: Eerdmans, 2002), 965.
17. Charles Spurgeon, The Autobiography of Charles H. Spurgeon (Cincinnati: Curts & Jennings, 1898–1900), 2:226–27. Tất nhiên, Spurgeon đã đằm mình trong Kinh thánh, vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi có âm hưởng của một số câu Kinh thánh trong đoạn này, một số câu đề cập đến lời tiên tri một cách rõ ràng (Giăng 4:29; 1 Cô 14:25; so sánh lời bình của ông về việc được Thánh Linh cảm động với Công vụ Acts 13:2; 19:21; 20:22; 21:4).
Trackbacks & Pingbacks
[…] nối bài viết Sự Tiếp Diễn Của Các Ân Tứ Thuộc Linh, giangluankinhthanh.net xin giới thiệu tới bạn đọc lập trường trái ngược của […]
Leave a Reply
Want to join the discussion?Feel free to contribute!