Trích Dẫn Sai Lời Chúa: Những Câu Kinh Thánh Thường Bị Hiểu Sai, Mô Tả Sai Hoặc Chế Nhạo (Phần 1)
Đức Chúa Trời không ban Kinh Thánh như một tuyển tập những cách ngôn (những tuyên bố ngắn gọn, súc tích, hữu ích) để áp dụng từng phần vào trong cuộc sống của chúng ta; mà Ngài ban những tường thuật lịch sử, mô tả của các sự kiện, tiểu sử, thơ ca, bài giảng, thư tín và những điều tương tự. Ý nghĩa của từng phần trong phân đoạn được kết nối với ý nghĩa của toàn bộ Kinh Thánh.
Chuyện này không thường xuyên xảy ra, nhưng tôi đã hoàn toàn đứng hình và câm lặng trước lời thách thức của một nữ Cơ Đốc Nhân trẻ ở Cairo, Ai Cập.
Tôi đang dạy “Đừng bao giờ chỉ đọc một câu Kinh Thánh”1 cho nhiều Cơ Đốc Nhân người Ai Cập tại chương trình Tập trung vào Gia đình của Học viện Lãnh đạo Sinh viên Trung đông. Tôi đang đề cập cụ thể đến xu hướng bất cẩn của Cơ Đốc nhân khi lấy một câu Kinh Thánh Cựu Ước ra khỏi ngữ cảnh và “công bố” rằng đây là lời hứa cho mình thì có một sinh viên đưa ra một thách thức khiến tôi không thốt nên lời.
“Có phải thầy đang nói rằng Cựu Ước không áp dụng cho đời sống tôi?” – người tín đồ đầy thất vọng thốt lên. “Trong rất nhiều hoàn cảnh khó khăn, tôi đã công bố lời Chúa trong Xuất 14:14 ‘Đức Giê-hô-va sẽ chiến đấu cho anh em, còn anh em cứ yên lặng’.2 Giờ thầy lại nói lời hứa này không dành cho tôi sao? Vậy thì tôi phải áp dụng câu Kinh Thánh trên như thế nào? Và nếu câu đó không liên quan gì đến tôi ngày nay, thì tại sao nó lại được viết trong Kinh Thánh? Tôi có thể công bố cho bản thân những câu Kinh Thánh nào trong Cựu Ước? Hãy cho tôi một câu Kinh Thánh mà tôi có thể trông cậy.” Tôi nhận ra mình đang bị kẹt trong một tình huống khó xử. Rõ ràng cô ấy đã nhầm lẫn khi viện đến câu Kinh Thánh Xuất 14:14 trong những hoàn cảnh của mình. Môi-se không hề đưa ra một nguyên tắc hay một lời hứa cho Cơ Đốc Nhân khi đương đầu với kẻ chống đối. Thật ra, Tân Ước dạy hoàn toàn ngược lại. Khi đối diện với chống đối, Cơ Đốc nhân cần giải trình chứ không yên lặng.3
Nhưng thật ra có một vấn đề sâu xa hơn. Thách thức cô ấy đang đối diện là gì? Điều gì từ những câu Kinh Thánh đó cô ấy có thể nương dựa vào? Có đúng là rất nhiều câu Kinh Thánh không hề liên quan hoặc không thể áp dụng cho chúng ta là những người tin? Nếu vậy thì trích dẫn Kinh Thánh Cựu Ước có ý nghĩa gì?
Đêm đó tôi trở về khách sạn và suy ngẫm về thách thức của cô sinh viên. Trong căn phòng tĩnh lặng, tôi nghiền ngẫm phân đoạn Kinh Thánh đó. Tôi đã bỏ sót điều gì? Giải pháp cho tình thế tiến thoái lưỡng nan này là gì? Rồi mắt tôi dừng lại ở câu 13 và một tia sáng lóe lên trong tâm trí tôi. Tôi cười thầm, gập Kinh Thánh lại và lên giường ngủ.
Ngày hôm sau tôi nói lại với cả lớp về thách thức đó, rằng tôi đã vật lộn với đoạn Kinh thánh đó cả đêm. Sau đó tôi nói với các sinh viên về rằng tôi thấy nhẹ cả người khi tìm ra một lời hứa ở ngay trong đoạn Kinh Thánh ấy, lời hứa mà tôi có thể công bố cho bản thân của mình trong vài ngày còn lại trước khi lên máy bay rời Cairo và trở lại Mỹ:
“Ðừng sợ, hãy đứng yên đó, và nhìn xem ơn giải cứu CHÚA thực hiện cho anh chị em hôm nay, vì những người Ai-cập anh chị em thấy hôm nay, anh chị em sẽ không bao giờ thấy họ nữa. (Bản dịch 2016)
Tôi đọc lời hứa trên một cách chậm rãi với cả sự hóm hỉnh và nghiêm trang, nên một lúc sau những người bạn Ai Cập của tôi mới hiểu ra và cả lớp phá lên cười.
Tất nhiên, tôi đã giải thích rằng áp dụng phân đoạn Kinh Thánh đó như vậy là sai đến ngớ ngẩn. Nhưng chính xác thì lỗi sai nằm ở đâu? Nếu họ không chấp nhận “lời hứa đó” của tôi, thì có phải câu Kinh Thánh này rốt cuộc không có gì để liên hệ, và thêm một câu Kinh Thánh nữa bị ném vào đống tro vì câu Kinh Thánh cụ thể đó không thể áp dụng vào cuộc sống của tôi ngày nay?
Để họ khỏi hoang mang, tôi đã nói với họ rằng chúng ta phải trở về 400 năm trước để học được rằng một ý tưởng thật sự tốt cũng có thể dẫn đến một hậu quả bất thường như thế nào.
Từng phần và tổng thể
Vào năm 1551, các chương Kinh Thánh được chia từ thế kỷ 13 được nhà in người Pháp Robert Stephanus đánh thêm số câu vào. Tất nhiên, điều này khiến cho việc tra cứu Kinh Thánh dễ dàng hơn rất nhiều, nhưng đồng thời nó cũng gây ra một vấn đề.
Việc đánh số từng câu (hoặc thậm chí đôi khi là từng cụm), khiến cho người đọc có xu hướng xem Kinh Thánh như là một tuyển tập những khẳng định rời rạc có ý nghĩa và sự áp dụng tách biệt khỏi ngữ cảnh lớn. Cho nên mới xảy ra việc “câu Kinh Thánh này áp dụng như thế nào với đời sống tôi?”.
Nhưng Đức Chúa Trời không ban Kinh Thánh như một tuyển tập những cách ngôn (những tuyên bố ngắn gọn, súc tích, hữu ích) để áp dụng từng phần vào trong cuộc sống của chúng ta4; mà Ngài ban những tường thuật lịch sử, mô tả của các sự kiện, tiểu sử, thơ ca, bài giảng, thư tín và những điều tương tự. Ý nghĩa của từng phần trong phân đoạn được kết nối với ý nghĩa của toàn bộ Kinh Thánh.
Ý nghĩa chuyển tải từ những đơn vị lớn hơn tới những đơn vị nhỏ hơn. Đơn vị câu giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của từng từ trong câu đó. Đơn vị phân đoạn giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của các câu. Đơn vị chương giúp chúng ta hiểu vai trò của từng phân đoạn trong bối cảnh lớn hơn. Cuối cùng, thể loại văn chương và bối cảnh lịch sử giúp chúng ta hiểu cả sách.
Vì thế việc hiểu đúng tổng thể là chìa khoá để hiểu đúng và áp dụng đúng từng phần. Chúng ta không thể đơn thuần tách riêng một hoặc hai câu ra và hỏi “tôi có thể áp dụng dòng này vào cuộc đời mình như thế nào?” Thay vào đó, chúng ta phải bám theo mạch văn để biết được phân đoạn lớn hơn đang nói điều gì đối với kinh nghiệm cá nhân của mỗi chúng ta.
Đó là vấn đề mà người chị em ở Cairo đã gặp phải. Cô ấy nghĩ rằng nếu bản thân mỗi một câu Kinh Thánh không thể áp dụng vào cuộc đời mình theo một cách nào đó thì thật thừa thãi. Tuy nhiên nếu bỏ câu đó đi thì bức tranh (toàn cảnh) sẽ thay đổi đáng kể.
Việc áp dụng không đến từ từng câu riêng biệt, nhưng đến từ mạch kể của phân đoạn hoặc từ mạch suy nghĩ logic – hai yếu tố này đều trở nên rõ ràng hơn khi không có số câu. Câu chuyện về Biển Đỏ lúc này có rất nhiều liên hệ cho Cơ Đốc Nhân dù không thể áp dụng những câu riêng rẽ tách biệt khỏi ngữ cảnh.
Để tránh vấn đề này khi lượm lặt những chỉ dẫn từ Kinh Thánh, hãy bỏ qua số đoạn, số câu mà tập trung vào bức tranh lớn hơn. Dù sao thì số câu cũng không được thần cảm và chúng đôi khi lại cản trở mạch văn mà Chúa đặt trong phân đoạn.
Cơ Đốc Nhân thường xuyên gặp phải lỗi sai này nên tôi nghĩ rằng mình nên khám phá một vài phân đoạn thường bị hiểu sai, mô tả sai hoặc chế nhạo do người đọc không quan tâm tới mạch văn của nội dung. Hãy bắt đầu với minh hoạ đơn giản trước.
Suy nghĩ tích cực sẽ trở nên một người tích cực?
Tôi hay nghe người ta – đôi khi là những Cơ Đốc nhân lẽ ra phải hiểu biết hơn – trích dẫn câu Kinh Thánh đầu tiên này khi dạy về “thái độ tinh thần tích cực”. Đây là cách mà câu này thường được trích: “Vì điều hắn nghĩ trong lòng mới chính là con người hắn.” Châm Ngôn 23:7.
Suy nghĩ tích cực, xưng nhận một cách tích cực thì anh sẽ trở thành một người tích cực, ý chính là như vậy. Điều anh tập chú ở bên trong sẽ trở nên thực tế bên ngoài. Thái độ tinh thần tạo nên con người anh. Suy nghĩ định hình số phận anh. Dĩ nhiên, quan điểm này có phần đúng. Những suy nghĩ mà bạn gắn tâm trí mình vào có thể tạo ra những khác biệt to lớn về loại người mà bạn trở thành. Phao-lô nói với người Cô-lô-se rằng “Hãy chú tâm vào những điều ở trên trời”. Ông cũng viết trong thư gửi người Phi-líp rằng “điều gì đức hạnh, đáng khen ngợi thì anh em phải nghĩ đến”.5 Tuy nhiên đó không phải là điều mà bậc hiền triết nghĩ đến trong sách Châm ngôn.
Lí do mà chúng ta không nắm bắt được ý này trong câu Châm Ngôn trên là bởi vì nó bị trích dẫn sai quá nhiều. Câu này thực ra là “Bởi vì hắn tưởng trong lòng thể nào thì hắn quả thể ấy” (Bản Truyền thống 1926). Trước giả đang nói về một người cụ thể chứ không phải bất cứ người nào. Nhưng người đó là ai? Câu trả lời ở trong chính đoạn Kinh Thánh đó. Toàn bộ phân đoạn trong Châm Ngôn 23:6-8 (Bản Truyền thống 1926) là thế này:
“Chớ ăn bánh của kẻ có mắt gian ác, Và đừng tham muốn những món ngon của hắn. Vì hắn tưởng trong lòng thể nào, thì hắn quả thể ấy. Hắn nói với con rằng: Hãy ăn uống đi, nhưng lòng hắn chẳng hiệp cùng con. Miếng con đã ăn con sẽ mửa ra, và mất những lời hòa mĩ của con.”
Rõ ràng đoạn Kinh Thánh này không hề liên quan đến việc suy nghĩ tích cực. Câu Kinh Thánh này đưa ra một cảnh báo rõ ràng rằng hãy cảnh giác với những kẻ ích kỷ. Họ luôn cho mình là trung tâm. Điều đó cám dỗ họ lừa dối, không thành thật và hai mặt. Đừng bợ đỡ họ. Đừng xu nịnh họ để được chiếu cố. Đừng hoài công đạt được sự đồng thuận của họ.
Đọc tiếp ba đoạn sau đó chúng ta lại thấy một lời cảnh báo tương tự:
“Kẻ nào ghen ghét, dùng môi miệng nói giả đò, Nhưng trong lòng nó nuôi sự gian lận. Khi nó nói ngọt nhạt, thì chớ tin; Vì trong lòng nó có bảy sự gớm ghiếc.” (Châm Ngôn 26:24-25- Bản Truyền thống 1926).
Phước cho kẻ mù?
Đôi khi, xem xét kỹ bối cảnh sẽ giúp chúng ta loại trừ những ý nghĩa mà câu Kinh Thánh không nói đến (tức là bỏ đi các lựa chọn chưa đúng), ngay cả khi chúng ta vẫn chưa xác định được nghĩa chính xác. Ví dụ chứng minh cho điều này là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và Thô-ma, người môn đồ hay nghi ngờ.
Nhiều người biết là Thô-ma không chịu tin vào sự phục sinh nếu ông chưa thể chạm vào vết thương trên thân thể Chúa Giê-su. Sau đó Chúa Giê-su hiện ra và bắt phục đồng thời khiển trách ông: “Có phải vì thấy Ta nên con tin chăng? Phước cho những người không thấy mà tin!” (Giăng 20:29).
Tôi đã từng nghe một mục sư dùng chính câu này trên bục giảng để chê trách việc biện giáo. Dù Chúa Giê-su có ý là gì khi nhận xét như vậy thì chắc chắn Ngài không có ý rằng đức tin không cần đi đôi với chứng cớ. Tại sao tôi biết như vậy? Chỉ cần đọc đoạn Kinh Thánh tiếp theo. Hãy bỏ qua số câu và xem chúng ta khám phá được gì.
“Đức Chúa Giê-su nói: “Có phải vì thấy Ta nên con tin chăng? Phước cho những người không thấy mà tin!” Đức Chúa Giê-su còn làm nhiều dấu lạ6 khác trước mặt các môn đồ mà không ghi chép trong sách nầy. Nhưng các việc nầy được ghi chép để anh em tin rằng Đức Chúa Giê-su là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời, và để khi anh em tin thì nhờ danh Ngài mà được sự sống.” (Giăng 20:29-31).
Bạn đã nhìn ra vấn đề rồi chứ? Nếu Thô-ma đã sai khi đòi xem chứng cớ thì tại sao trong câu tiếp theo Giăng lại nói rằng mục đích của toàn bộ sách Tin lành của ông là để chép lại những bằng chứng diệu kỳ nhằm thêm niềm tin vào sự cứu rỗi. Suy cho cùng thì những dấu lạ cần được nhìn thấy.
Không, Chúa Giê-su nghĩ đến điều khác chứ không phải tính chính đáng của bằng chứng. Tất nhiên là nhìn nhận này cũng chưa giúp chúng ta hiểu rõ ý Chúa Giê-su muốn nói, nhưng nó đã giúp chúng ta loại bỏ sai lầm phổ biến trong khi đọc.7
Tin dữ về người Sa-ma-ri nhân lành
Tôi đã khám phá ra vấn đề của ẩn dụ người Sa-ma-ri nhân lành một cách hoàn toàn tình cờ. Tôi đang tìm trong các sách Phúc Âm để xem thực chất, “công bằng xã hội” có được bày tỏ trong sự giảng dạy của Đấng Christ hay không. Tôi khám phá rằng hầu hết những lần Chúa Giê-su đề cập đến kẻ nghèo và kẻ bị áp bức, thì Ngài đang muốn nói về một điều khác.8 Và hóa ra điều này lại đúng với trường hợp Người Sa-ma-ri nhân lành.
Toàn bộ câu chuyện được ghi lại trong Lu-ca đoạn 10:25-37. Mặc dù trong Kinh Thánh của tôi, câu chuyện bị cắt ngang bởi tiêu đề “Người Sa-ma-ri nhân lành giữa câu 29 và 30 (Kinh Thánh Tiếng Việt có vẻ đặt đúng tiêu đề giữa câu 24 và 25 – N.D.). Những tiêu đề như thế này có thể giúp ích, nhưng đôi khi chúng cũng gây cản trở.
Câu hỏi là: Tại sao Chúa Giê-su lại kể câu chuyện về người Sa-ma-ri? Bất kỳ ai đọc từ câu 30 theo như tiêu đề trong Kinh Thánh của tôi thì sẽ hoàn toàn hiểu sai ý bởi vì nó không nằm trong ẩn dụ. Vâng, ở đây có một bài học về thành kiến và cố chấp, và cũng có một hình ảnh đầy ấn tượng về lòng trắc ẩn và thương xót. Chắc chắn là như vậy. Nhưng trước hết, đó không phải là lý do mà Chúa Giê-su kể câu chuyện ẩn dụ. Lý do nằm trong cuộc trao đổi trước đó, một cuộc hội thoại mà nhiều người bỏ qua vì cái tiêu đề ở giữa.
Một thầy dạy luật hỏi Chúa Giê-su rằng ông ta phải làm gì để nhận được sự sống đời đời. Chúa Giê-su hỏi rằng Luật pháp yêu cầu điều gì. Ông ta trả lời bằng hai điều răn lớn. Sau đó Chúa Giê-su đáp lại rằng “Ngươi đáp phải lắm; hãy làm điều đó thì ngươi sẽ sống”. Đơn giản vậy thôi.
Tuy nhiên người thầy dạy luật cần làm rõ nên ông hỏi tiếp “Ai là người lân cận tôi?”. Lý do ông ta hỏi câu này cũng chính là bản lề cho toàn bộ phân đoạn này. Ông ta “muốn chứng tỏ mình là công chính” (câu 29).
Đối với cá nhân tôi, trong suốt 41 năm tin Chúa không có lúc nào tôi giữ được một trong hai điều đó. Tôi bị đè bẹp mỗi ngày dưới sức nặng của cả hai nghĩa vụ này mà không có hy vọng để tự biện hộ cho mình. Tuy nhiên, rõ ràng là thầy dạy luật cảm thấy tự tin hơn, tất nhiên là còn xem “người lân cận” theo ý Chúa Giê-su là ai nữa. Vậy thì chính xác Chúa Giê-su muốn ông ta yêu ai như chính bản thân mình? Câu trả lời của Chúa Giê-su là: kẻ thù mà ông ta khinh thường nhất. Mỗi ngày. Không chùn bước, không thiếu sót. “Hãy làm điều đó thì ngươi sẽ sống.”
Ở đây Chúa Giê-su không chủ trương công bằng xã hội hay hoà giải chủng tộc, hay tình huynh đệ, hay đối tốt với người lân cận. Chúa không nói về cái tốt, mà đang nói về cái xấu. Chúa đang nói đêbs việc chúng ta không thể tự xưng công chính (hãy nhớ rằng thầy dạy luật hỏi “tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” câu 25).
Ẩn dụ về người Sa-ma-ri nhân lành là câu chuyện về tin dữ. Câu chuyện không nói về sự tốt lành của người Sa-ma-ri mà là sự xấu xa của chúng ta. Chúng ta hoàn toàn không có khả năng thực hiện hai điều răn đơn giản đó và tỏ mình là công chính.
Nếu…Dân ta
Tôi đã để đoạn Kinh Thánh gây tranh cãi nhất xuống cuối cùng. Có lẽ bạn quen thuộc với câu này, thậm chí còn thích nó là đằng khác. Nhưng trước khi khiến bạn bồn chồn nữa, hãy lưu ý dấu chấm lửng (…) trên tiêu đề “Nếu…Dân ta”. Dấu ba chấm báo hiệu rằng có điều gì đó đã bị bỏ ra khỏi phần trích dẫn. Điều gì đó đã bị bỏ sót. Thường thì những thiếu sót này không ảnh hưởng gì. Nhưng trong nhiều trường hợp khác, chúng lại gây ảnh hưởng chết người đến việc giải nghĩa.
Đây là cách mà II Sử ký 7:14 thường được trích dẫn:
“nếu…dân Ta, là dân được gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta và từ bỏ con đường gian ác, thì từ trên trời Ta sẽ lắng nghe, tha thứ tội lỗi họ và chữa lành đất nước họ.”
“Lời hứa” này thường được trích dẫn khi Cơ Đốc Nhân nhóm lại cầu nguyện cho đất nước và các nhà lãnh đạo, một điều mà Kinh Thánh vừa bày tỏ (Rô-ma 10:1) vừa ra lệnh (Giê-rê-mi 29:7, I Ti-mô-thê 2:1-2). Vì vậy, Cơ Đốc Nhân Hoa Kỳ khẩn nguyện dựa vào II Sử ký 7:14, tin cậy rằng Chúa sẽ cứu đất nước Hoa Kỳ khỏi những tai hoạ và sầu não khi họ biết ăn năn. Phương trình cơ bản là như thế này: Nếu Cơ Đốc Nhân (“dân Ta”) ăn năn (“từ bỏ con đường gian ác”), Chúa sẽ phục hồi sự thịnh vượng của dân tộc (“chữa lành đất nước họ”).
Kỳ lạ là, phương trình này có vẻ không đúng với lịch sử. Có thể thấy Hội Thánh mạnh về mặt thuộc linh nhất vào thế kỷ I, nhưng Giê-ru-sa-lem, tâm chấn của Cơ Đốc Giáo có sức rung lắc lại bị người La Mã san bằng vào năm 70SCN. Khi Cơ Đốc Giáo trở nên mạnh hơn trong đế quốc La Mã, thì La Mã trở nên suy yếu và cuối cùng bị diệt vong vào năm 410SCN. Ngược lại, Đức Quốc Xã lại rất mạnh một phần vì Hội Thánh suy yếu.
Khuôn mẫu lịch sử không chứng minh điều đó vì một lý do. Lời hứa đã bị hiểu sai và do đó áp dụng sai. Lý do cho rắc rối này chính là dấu chấm lửng đầy nguy hiểm. Hãy luôn cảnh giác với những dấu chấm lửng.
“Lời hứa” được công bố trong câu 14 mới chỉ là một nửa của một đơn vị ngữ pháp lớn hơn (trong trường hợp này là một câu dài), được bắt đầu trong câu 13. Câu trích dẫn rút gọn gây hiểu lầm vì 30 từ ở giữa “Nếu” và “dân Ta” đã bị thay thế bởi một dấu chấm lửng theo cách mà đoạn này phân đoạn này được trích dẫn.9 Bạn có nghĩ rằng những từ đó có liên quan đến ý Đức Chúa Trời muốn nói không? Hóa ra là những từ đó có vai trò cốt yếu. Hãy thêm phần bị thiếu vào (in nghiêng):
“Như vậy, Sa-lô-môn đã hoàn tất việc xây cất đền thờ Đức Giê-hô-va và cung vua. Tất cả công trình Sa-lô-môn định làm trong đền thờ Đức Giê-hô-va và trong cung vua đều hoàn thành mỹ mãn. Đức Chúa Trời hiện ra lần thứ hai cho Sa-lô-môn. Ban đêm, Đức Giê-hô-va hiện đến cùng Sa-lô-môn và phán rằng: “Ta đã nghe lời cầu nguyện của con và đã chọn nơi nầy làm nhà dâng sinh tế. Khi Ta đóng các tầng trời lại, không cho mưa sa xuống; khi Ta truyền cho cào cào phá hại đất đai; và khi Ta giáng bệnh dịch giữa dân Ta; nếu dân Ta, là dân được gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta và từ bỏ con đường gian ác, thì từ trên trời Ta sẽ lắng nghe, tha thứ tội lỗi họ và chữa lành đất nước họ.”
Lưu ý phần “Ta đã nghe lời cầu nguyện của con”. Lời Chúa ở đây là để đáp lời cho một lời cầu nguyện cụ thể. Lời cầu nguyện nào vậy? II Sử ký 6 mang đến lời giải đáp.
II Sử ký 7 là phần hai trong cuộc nói chuyện giữa Sa-lô-môn và Đức Chúa Trời. Trong một khải tượng lúc ban đêm, Đức Chúa Trời trả lời từng ý cho lời cầu nguyện mà Sa-lô-môn nói ra trong lời khẩn nguyện dài trong buổi cung hiến đền thờ (6:13-42). Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn trong chương 6 được Chúa đáp lời trong chương 7.
Bảng bên dưới ghép những yêu cầu cụ thể của Sa-lô-môn với sự đáp lời cụ thể của Đức Chúa Trời:
Khi câu chuyện được đọc như một thể thống nhất thì ý nghĩa của phân đoạn 7:13-14 rất rõ ràng. Đoạn này là câu trả lời từ Chúa cho một lời kêu cầu cụ thể từ Sa-lô-môn để Ngài rút bàn tay phán xét khỏi dân Do Thái nếu họ ăn năn và tìm kiếm sự nhân từ của Ngài (6:24, 25, 27). Khi Chúa trừng phạt Y-sơ-ra-ên với cào cào và dịch bệnh, sự ăn năn thật của họ sẽ đem đến sự tha thứ và chữa lành (7:13-14).
Một vài người đã đội lốt giải kinh, lấy “Dân Ta” thành dân Chúa trong mọi thời đại, nhưng điều này không đúng. Nếu bạn hứa một điều với đứa con trai của mình trong một lá thư và bắt đầu bằng “con của ta”, thì đứa con gái sinh sau của bạn không thể nhận lời hứa đó là của mình chỉ vì cô bé cũng là con của bạn. Ý định ban đầu của bạn là với một người cụ thể, trong hoàn cảnh cụ thể. Dùng nó vào bất cứ trường hợp nào khác sẽ là lạm dụng, đó không phải điều bạn nghĩ trong đầu khi viết thư.
Cũng vậy, II Sử ký 7:14 không phải là một lời hứa phổ quát cho bất kỳ người nào được xem là “dân” của Chúa trong bất kỳ thời đại nào. Thật ra, Sa-lô-môn nêu rõ cả mười lần trong phân đoạn này rằng “Dân Ta” là để chỉ dân “Y-sơ-ra-ên” (các câu 6:14, 16, 17, 21, 24, 25, 27, 29, 32, 33).
“Nếu…Dân Ta” không phải là một lời hứa của Chúa để chữa lành vết thương tự cứa của văn hoá Hoa Kỳ. Đây là lời Chúa hứa rằng Ngài luôn phán xét dân Ngài – dân Y-sơ-ra-ên, gắn liền với những lời hứa giao ước trước đó dành cho dân Do Thái, đặc biệt là lời hứa với Đa-vít (6:15-17, 7:17-18) và những lời hứa liên quan đến xứ mà Ngài đã ban cho người Hê-bơ-rơ (6:25, 27).
Không có gì sai khi cầu nguyện cho đất nước mình. Thật ra chúng ta cần phải cầu nguyện, nhưng II Sử 7:11-14 không phải là lý do. Lời hứa này áp dụng vào những hoàn cảnh cụ thể trong lịch sử dân Do Thái, không phải lịch sử đất nước chúng ta.
Vậy thì Cơ Đốc Nhân có thể nhận được gì khi đọc đoạn này? II Sử ký 6-7 minh hoạ cho một khuôn mẫu chứ không phải một lời hứa, về sự nhân từ thương xót của Chúa dành cho những người hạ mình và ăn năn (để ý đến trường hợp của người Ni-ni-ve trong sách Giô-na). Điều này đặc biệt đúng khi lời kêu cầu gắn liền với những lời hứa giao ước.
Lời hứa của Chúa thuộc về Cơ Đốc Nhân ngày nay chính là Giao Ước Mới về sự tha thứ dựa trên sự xả thân của Đấng Christ (Hê-bơ-rơ 10:15-23), nhưng lời hứa này là cho từng cá nhân chứ không phải cả dân tộc.
Rộng hơn nữa, đây có thể là một sự khích lệ cho bất kỳ quốc gia nào cầu nguyện tích cực như Sa-lô-môn dưới sự nhân từ thương xót của Chúa. Cùng một Đức Chúa Trời, Đấng trả lời Sa-lô-môn cũng có thể đáp lời những kẻ ăn năn khác.
Tôi xin khép lại bằng điều tôi đã viết ở chỗ khác để tóm lại mức độ nghiêm trọng của việc phớt lờ mạch văn của bất kỳ đoạn Kinh Thánh nào:
“Hiểu sai một phân đoạn làm vô hiệu hoá Lời Chúa, cướp mất thẩm quyền và sức ảnh hưởng của Kinh Thánh. Toàn bộ lý do ban đầu khiến chúng ta tìm đến với Kinh Thánh – để tìm kiếm lẽ thật và áp dụng vào đời sống chúng ta – bị cản trở khi chúng ta phớt lờ ngữ cảnh.”10
Tác giả bài viết: Greg Koukl là Người Sáng Lập và Giám Đốc của tổ chức Biện giáo Cơ Đốc Stand to Reason. Greg đã xuất bản hơn 180 bài báo và đến trò chuyện tại gần 60 trường Cao Đẳng và Đại Học ở Hoa Kỳ và các nước khác. Greg nhận bằng Thạc Sỹ Triết học Tôn giáo và Đạo đức tại Trường Thần học Talbot và tốt nghiệp hạng ưu. Ông cũng nhận bằng Thạc Sỹ Biện Giáo Cơ Đốc từ Đại học Simon Greenleaf. Ông là giáo sư thỉnh giảng môn Biện Giáo Cơ Đốc ở Đại học Biola. Ông dẫn chương trình radio của chính mình với hơn 20 năm chủ chương Cơ Đốc giáo rành mạch và bảo vệ thế giới quan Cơ Đốc.
– Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc
*Quan điểm của bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của đội ngũ Ba-rúc
Chú thích:
1. Đây là một bài nói chuyện quan trọng, cũng là một tập sách nhỏ về cách hiểu Kinh thánh cho đúng có trên trang web str.org.
2. Mọi trích dẫn Kinh Thánh trong bài viết gốc sử dụng bản dịch New American Standard Version trừ khi có ghi chú khác. (Trích dẫn Kinh Thánh tiếng Việt được dùng trong bản Truyền thống Hiệu đính 2010, trừ khi có ghi chú khác).
3. Lưu ý một vài trích dẫn như trong Ma-thi-ơ 10:19-20, 27-28; Công Vụ 18:8; Ê-phê-sô 6:19-20; Cô-lô-se 4:3-4.
4. Với một vài ngoại lệ, chẳng hạn như nhiều phần trong sách Châm Ngôn.
5. Cô-lô-se 3:2 và Phi-líp 4:8.
6. Tức là chứng minh các phép lạ.
7. Chẳng hạn, có thể chỉ cần lời chứng từ những người bạn của Thô-ma là đủ. Như vậy là Chúa Giê-su có thể đang trách ông đòi hỏi bằng chứng quá cực đoan, điều mà những người “hoài nghi” dễ mắc phải.
8. Xem Stand To Reason Mentoring Letter, tháng 4 năm 2014.
9. Bản Kinh Thánh NIV và ESV đã dịch đoạn này hơi khác một chút (“Khi Ta đóng cửa các tầng trời…nếu dân Ta…”), nhưng những khác biệt này không ảnh hưởng đến ý tôi muốn nói. Những chi tiết trong câu 13 là mấu chốt để hiểu lời hứa trong câu 14.
10. “Silly Putty Bible Study”, Solid Ground, tháng 9 năm 2010.
Trackbacks & Pingbacks
[…] Trong vấn đề trước về Nền tảng vững chắc1 [http://www.str.org/publications/misquoting-god-solid-ground-january-2015#.VMQudcbw-Q4] tôi đã giải thích tại sao câu hỏi “Câu Kinh thánh này áp dụng với đời sống tôi như thế nào?” lại là một câu không nên hỏi khi nghiên cứu Kinh thánh. Lý do là trong hầu hết các trường hợp, Đức Chúa Trời không ban các câu Kinh thánh như những mẩu thông tin rời rạc, riêng rẽ, tách khỏi câu chuyện lớn hơn và có thể áp dụng từng phần vào đời sống chúng ta. Thay vào đó, có một dòng suy nghĩ gắn với ý nghĩa của từng phần và đóng vai trò quan trọng với nó. “Đi theo dòng tư tưởng” của phân đoạn lớn hơn là chìa khóa để xác định đúng cách áp dụng cụ thể của phân đoạn với đời sống cá nhân chúng ta. “Dòng tư tưởng” đó không chỉ gồm đoạn ấy, chương ấy hay thậm chí cả sách, mà đôi khi còn liên quan đến vị trí của bản văn trong dòng chảy lịch sử – dòng chảy của cốt truyện trong Kinh thánh – vì những lời hứa và mục đích của Đức Chúa Trời được thực hiện qua Y-sơ-ra-ên, và sau này là qua hội thánh. […]
Leave a Reply
Want to join the discussion?Feel free to contribute!