Bốn Thế Giới Của Người Giảng Đạo – Phần 2: Thế Giới Hiện Đại
Giangluankinhthanh.net – Trung bình một người xem ti-vi 26 tiếng/tuần, còn chưa nói đến thời gian ngồi máy tính hay lướt smartphone. Trước khi đi học, một đứa trẻ dành 6.000 giờ trước màn hình ti-vi. Từ khi đi học đến khi tốt nghiệp, chúng dành thêm 17.000 giờ nữa hoặc hơn để xem ti-vi hoặc một thiết bị truyền thông nào đó. Đến hai mươi tuổi, chúng đã xem 700.000 quảng cáo – cái nào cũng để bán hàng, cái nào cũng nhanh, cái nào cũng sống động, cái nào cũng nhiều hình ảnh, cái nào cũng chạm đến cảm xúc. Còn bạn thì bước lên bục với một bài giảng nghe như ông giáo làng. Thế là họ không nghe. Bạn thì nghĩ là: “Họ nên nghe chứ nhỉ!” Nhưng không. Vậy nên, nếu muốn truyền đạt với thế giới thời nay thì bạn phải xét đến những điều như thế.
Thế giới thứ hai: Thế giới Hiện đại
Lịch sử
Thế giới của người giảng đạo, thế giới hiện đại, là thế giới mà tôi phải làm việc với nó – thế giới tuyên đạo pháp, thế giới của thế kỷ 21. Thế giới này cũng có lịch sử của nó. Tôi có cảm giác là những người theo Tin Lành có xu hướng phớt lờ lịch sử. Rất tiếc là lịch sử sẽ không phớt lờ chúng ta. Chúng ta có thể muốn phớt lờ lịch sử, nhưng lịch sử không phớt lờ chúng ta.
Tôi còn nhớ lần đầu trò chuyện với những người có ý định phá thai. Đó là một cặp vợ chồng. Năm ấy là 1965 và tôi đang làm việc với một nhóm y bác sĩ tại Dallas trong một buổi học Kinh thánh. Cậu thanh niên này cùng vợ đến văn phòng của tôi. Cậu ta đang học năm thứ ba trường y. Họ phát hiện ra rằng cô vợ đang mang bầu, với họ thì điều này đang cản trở những dự định sẵn có. Cô vợ đang đi làm để anh chồng có thể đi học, và có vẻ như điều đó sẽ thay đổi. Anh chồng đang chuẩn bị học nội trú nâng cao mất vài năm, và việc sinh con không nằm trong kế hoạch của họ. Họ đến và bảo tôi rằng với tình hình hiện tại, họ đang nghiêm túc cân nhắc việc phá thai. Đó là năm 1965. Tôi vẫn nhớ cảm giác của mình lúc đó. Nếu họ bảo tôi rằng họ có đứa con hai tuổi, và họ sẽ giết đứa con hai tuổi đó vì nó làm họ tức điên lên thì có khi tôi còn hiểu được! Nhưng đó là lần mà ý nghĩ phá thai làm tôi chùn bước nhất. Tôi không biết phải xử lý như thế nào.
Năm 1968, một số quyết định tư pháp liên quan đến phá thai được ban hành. Trước đó, tại Hoa Kỳ, mọi bang trong liên bang đều có luật chống lại việc phá thai. Hai bang – Colorado và Hawaii – cho phép phá thai nếu việc mang thai ảnh hưởng đến sức khỏe của người phụ nữ. Sau đó, vào năm 1973, khi Roe v. Wade được Tòa án Tối cao Hoa Kỳ ủng hộ, nước Mỹ công nhận rằng phá thai là một việc làm hợp pháp. Ngày nay, một triệu đứa trẻ chưa được sinh ra hoặc hơn bị phá bỏ. Rất nhiều người phụ nữ trong xã hội của chúng ta đã phá thai. Nếu bạn không nhớ điều đó mà cứ đứng dậy và la lối như một vị tiên tri về tội phá thai, mà không nhận ra rằng trước mặt bạn, trong hội chúng kia là một nhóm người nữ đã từng phá thai, thì bạn đang khiến họ tan nát cõi lòng và mang cảm giác tội lỗi ùa về trong họ. Ngày nay, bạn không thể chỉ làm tiên tri; bạn còn phải làm mục sư. Bạn phải hiểu rằng lịch sử đã đuổi kịp bạn. Chúng ta phớt lờ lịch sử nhưng nó không phớt lờ chúng ta.
Nhiều người nghĩ rằng nên có những hội thánh đa chủng tộc chỉ vì một nhóm các nhà thần học từ các chủng viện Gordon-Conwell, Trinity, Dallas, Fuller và Westminster đã ngồi lại với nhau vào thập niên 40 của thế kỷ trước và nghiên cứu sách Ê-phê-sô. Một người trong số họ có thể nói rằng: “Anh thấy đó, bức tường ngăn cách giữa người Do Thái và dân ngoại đã được phá bỏ rồi. Việc này phải có ảnh hưởng nào đó, phải có tác động nào đó trên vấn đề chủng tộc chứ! Chúng ta phải phá bỏ bức tường đó trong các hội thánh của mình!” Nó không diễn ra vì có những nghiên cứu và hô hào như vậy. Nó diễn ra vì Rosa Parks đã quá mệt mỏi với việc người da đen phải ngồi ghế sau trên xe buýt, bà không chịu nhường chỗ nữa. Kéo theo đó là những đoàn tuần hành vào những năm 50 và 60 của thế kỷ trước. Nhóm cuối cùng nghiệm ra tất cả những điều này là các hội thánh, một số hội thánh đến giờ còn chưa nghiệm ra cơ. Sự hợp nhất chủng tộc không đến vì chúng ta quá cứng nhắc về câu chữ, quá khuôn phép với Kinh thánh và nói rằng: “Phải loại bỏ điều này! Nó thật đáng trách; nó chống lại luật của Đấng Christ!” Không, sự thay đổi xảy ra ở ngoài kia kìa, trên những đường phố. Chúng ta phớt lờ lịch sử nhưng nó không phớt lờ chúng ta.
Chúng ta có những vấn đề về ô nhiễm, nghèo đói, hủy hoại môi trường, đó chỉ là một vài trong số nhiều điều khác. Chúng ta đã bao giờ nói chút gì về chúng chưa? Chúng ta có nghĩ đến chúng không? Tôi nhớ mình đã từng trò chuyện với một linh mục công giáo, ông kể rằng một phần trách nhiệm của ông là nghe các xơ xưng tội. Tôi hỏi ông xem cảm giác đó ra sao. Ông nói cứ như bị ném đá đến chết bằng bỏng ngô vậy. Tôi lớn lên trong một hội thánh biết ý muốn của Đức Chúa Trời cả về độ dài của tóc người ta, anh nên để râu hay không, cô nên mặc váy dài đến tầm nào, nhưng chính hội thánh ấy lại chẳng bao giờ nói đến sự phân biệt sắc tộc, hợp nhất, hay những vấn đề đang giằng xé xã hội của chúng ta. Bạn có thể phớt lờ lịch sử nhưng nó sẽ không phớt lờ bạn đâu. Nó liên tục gõ cửa và nói: “Này! Chương trình đây này!” Để xã hội lên chương trình cũng không sao, nhưng chúng ta phải đáp lại. Bạn có thể phớt lờ lịch sử nhưng nó sẽ không phớt lờ bạn đâu.
Ngôn ngữ
Chúng ta cũng có ngôn ngữ của thế kỷ 21. Đó là ngôn ngữ của người truyền đạt, ngôn ngữ của người giảng đạo. Ngôn ngữ của phố thị. Ngôn ngữ của quảng cáo. Ngôn ngữ mẹ đẻ, ngôn ngữ thông dụng, hay koine trong tiếng Hy Lạp. Bằng một cách nào đó, khi vào hội thánh, chúng ta đánh mất cái ngữ điệu đó. Sáng Chúa nhật, người giảng đạo đứng lên và nói: “Lạy Chúa, Đấng ngự nơi hào quang của vũ trụ, chúng con hết mực cung kính khiêm nhu đến với Ngài và xin Ngài . . .” Bạn có thể tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy ra nếu chính người này, sau khi buổi lễ kết thúc, đến với cửa hàng McDonald gần đó và nói (bằng tông giọng của người giảng đạo), “Cho ta ba hamburger, hai Cô-ca và một khoai tây chiên. Và ngươi hãy làm cho nhanh.” Người ta sẽ nghĩ rằng ông ta mất trí. Khi chúng ta làm điều đó trong hội thánh, cho lỗ tai của một người chưa ở đó được 15 năm, thì kiểu ngôn ngữ đó nghe như đến từ một hành tinh khác – hoặc chắc chắn là một thời đại khác.
Ngôn ngữ của người truyền đạt là ngôn ngữ của những người ngoài kia. Đó là ngôn ngữ phù hợp nhất. Khi không nhận ra điều đó, chúng ta dễ nhuộm cho sứ điệp tin lành trong Kinh thánh cái màu cổ kính, thêm cả lối nói là lạ, khiến nó chẳng liên quan đến con người thời nay.
Văn hóa
Khi nghĩ đến văn hóa, tôi liên hệ đến cặp kính màu trên mắt người ta. Người Mỹ có thể có kính màu xanh dương. Người Mỹ La Tinh có thể có kính màu vàng. Người Châu Âu, người Anh có thể có kính màu cam. Khi chúng ta nhìn qua cặp kính đó, chúng ta đều cùng nhìn vào một thứ nhưng theo những cách khác nhau. Thực ra, cặp kính đó quá thông dụng, chúng không bao giờ mất đi, nên bạn không thể tưởng tượng được rằng người khác có thể nhìn mọi thứ khác so với cách bạn thấy nó. Chính văn hóa đã tô màu cho những điều chúng ta thấy. Chúng ta bị chìm ngập vào nền văn hóa của mình quá nhiều nên khó có thể bước ra và đánh giá nó.
Hãy xem nếu bạn lớn lên trong nền văn hóa này thì như thế nào? Người Mỹ giảng về quyền tể trị của Đấng Christ trong nền dân chủ ra sao? Cứ bốn năm một lần, các ứng viên tổng thống của Hoa Kỳ lại đến với dân Mỹ, khẩn khoản nài xin dân Mỹ bầu cho họ. Cứ hai năm một lần, các thành viên Quốc hội lại đến với dân Mỹ và muốn người dân bầu cho họ. Cứ sáu năm một lần, các thượng nghị sĩ lại đi kiếm phiếu bầu. Người Mỹ bầu để họ vào, người Mỹ bầu để họ ra. Vậy người Mỹ giảng về quyền tể trị của Đấng Christ trong nền dân chủ ra sao? Theo tôi hiểu sách Công vụ và phần còn lại của Tân Ước thì Đức Chúa Trời không xin lá phiếu của chúng ta. Một số người nghĩ về việc bầu cử như thế này: Nếu Chúa bỏ phiếu thuận và Sa-tan bỏ phiếu chống thì chúng ta là phiếu quyền định. Chúng ta thấy điều đó trong vốn từ vựng của mình. Chúng ta nói rằng: “Hãy khiến Chúa Giê-su Christ là Chúa của đời sống bạn.” Nhưng đó không phải là thần học đúng đắn. Đừng có khiến Ngài là Chúa. Ngài đâu có ra tranh cử. Tân Ước chép rằng Ngài là Chúa, giống như thực tế rằng trọng lực là một quy luật tự nhiên. Và nếu không đáp ứng với điều đó thì bạn sẽ xuống địa ngục.
Cũng vậy, trong nền văn hóa của chúng ta, bạn phải giảng về ân điển như thế nào? Một trong những đề tài của quảng cáo thời nay là bạn đáng nhận được bất cứ thứ gì mình có. Bạn có thể thấy điều đó trong quảng cáo ô tô. Trời đã tối, và một ánh đèn le lói trên tầng 5 của một tòa văn phòng. Giọng thuyết minh vang lên: “Bạn đã làm việc không ngừng nghỉ để vươn tới đỉnh cao. Bạn đã cố gắng hết sức mình. Lúc này đây, bạn đã đạt được thành công, lúc này đây, bạn có phần thưởng của người chiến thắng.” Đèn tắt. Người này bước ra, tay cầm ca-táp và bước vào con xe Cadillac, BMW hay Buick mới tinh. Bạn có biết tại sao mình lại mua một con xe như vậy không? Không phải để đi từ điểm A đến điểm B. Bạn mua con xe BMW hay Buick để hàng xóm của mình tức xì khói. Bạn xứng đáng có được nó. Nó tượng trưng cho chiến thắng của bạn. Hamburger cũng vậy. Bạn đến một cửa hàng McDonal, tại sao? Bởi vì, theo quảng cáo của họ thì “Ngày hôm nay, bạn đáng được nghỉ ngơi đôi chút.” Nếu mọi thứ bạn có, từ con xe đến cái hamburger, đều là thứ bạn xứng đáng có được, thì bạn sẽ giảng về ân điển thể nào?
Thảo nào có những người nói với các mục sư rằng “Tôi giận Chúa lắm.” “Ôi sao vậy?” – Bạn hỏi. “Tôi không chỉ giận ông ấy thôi đâu. Tôi còn thất vọng về ông ấy nữa”, người đó nói. Bạn muốn nói với anh ta thế này: “Anh có biết là mỗi giọt nước anh nhận được phía bên này địa ngục là chỉ bởi ân điển không? Ngài chẳng nợ anh thứ gì. Ngài sở hữu anh chứ Ngài chẳng nợ anh thứ gì.” Cái khó là ở chỗ, bạn không thể nói như vậy trong nền văn hóa này. Bạn có thể nói điều đó, nhưng người ta sẽ chẳng nghe. Hoặc nếu có nghe thì người ta cũng bỏ đi, giận cả Chúa lẫn bạn. Bạn giảng trong nền văn hóa này. Bạn sẽ phải làm điều đó như thế nào?
Bạn giảng trong một nền văn hóa tràn ngập hình ảnh như thế nào? Trung bình một người xem ti-vi 26 tiếng/tuần, còn chưa nói đến thời gian ngồi máy tính hay lướt smartphone. Trước khi đi học, một đứa trẻ dành 6.000 giờ trước màn hình ti-vi. Từ khi đi học đến khi tốt nghiệp, chúng dành thêm 17.000 giờ nữa hoặc hơn để xem ti-vi hoặc một thiết bị truyền thông nào đó. Đến hai mươi tuổi, chúng đã xem 700.000 quảng cáo – cái nào cũng để bán hàng, cái nào cũng nhanh, cái nào cũng sống động, cái nào cũng nhiều hình ảnh, cái nào cũng chạm đến cảm xúc. Còn bạn thì bước lên bục với một bài giảng nghe như ông giáo làng. Thế là họ không nghe. Bạn thì nghĩ là: “Họ nên nghe chứ nhỉ!” Nhưng không. Vậy nên, nếu muốn truyền đạt với thế giới này thì bạn phải xét đến những điều như vậy. Bạn có thể khinh ghét nó, bạn có thể giảng chống lại nó, có lẽ bạn không thích nó, nhưng nó là như vậy. Những người này đến với bạn trong nền văn hóa đó, ngoài nền văn hóa đó; bạn là một phần trong nền văn hóa đó, và bạn không thể nào tránh được. Hãy cứ phân tích điều này nếu muốn, và khi đã thông suốt, nếu muốn chạm đến thế hệ này cho Đức Chúa Trời, hãy chạm đến họ trong khuôn khổ nền văn hóa của họ.
– Tác giả: Haddon Robinson –
– Nguồn: Scott M. Gibson, ed., The Worlds of the Preacher – Baker Academic, Baker Publishing Group, © 2018 –
– Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc –
Giangluankinhthanh.net thân mời các bạn đón đọc Phần 3: Thế Giới Của Người Nghe Người Giảng Đạo & Thế Giới Của Người Giảng Đạo vào tuần kế tiếp.
Bốn Thế Giới Của Người Giảng Đạo – Phần 1: Thế Giới Kinh Thánh
Trackbacks & Pingbacks
-
[…] Bốn Thế Giới Của Người Giảng Đạo – Phần 2: Thế Giới Hiện Đại […]
-
[…] Bốn Thế Giới Của Người Giảng Đạo – Phần 2: Thế Giới Hiện Đại […]
Leave a Reply
Want to join the discussion?Feel free to contribute!
Giáo sư nói gì cũng đúng và thuyết phục 😅