GIỮA HAI THẾ GIỚI – Bài Phỏng Vấn Mục Sư John Stott
Giangluankinhthanh.net – John Stott xuất hiện như một trong những nhà giảng đạo tin lành hàng đầu thế giới trong nửa cuối thế kỷ 20. Chức vụ của ông kéo dài nhiều thập kỷ và trải rộng trên nhiều châu lục, kết hợp sự sốt sắng truyền giáo với sứ điệp đời đời của Phúc âm. Ông chính là người đã đưa ra hình ảnh về người giảng luận như cây cầu giữa hai thế giới: thế giới Kinh thánh ngày xưa và thế giới hiện đại thời nay. Bài phỏng vấn sau được tiến hành vào năm 1987, người phỏng vấn là mục sư Albert Mohler, hiện là viện trưởng chủng viện thần học Báp-tít phương Nam (The Southern Baptist Theological Seminary) tại Louisville, Kentucky, Hoa Kỳ.
Mohler: Ông đã đặt cả mục vụ của mình vào việc giảng giải kinh (biblical preaching) và đã có danh tiếng trên toàn thế giới vì truyền đạt phúc âm hiệu quả. Ông định nghĩa thế nào là giảng giải kinh?
Stott: Tôi tin rằng giảng hoặc diễn giải Kinh Thánh là mở ra bản văn được thần cảm với sự trung thành và nhạy bén sao cho tiếng của Đức Chúa Trời được nghe thấy và dân của Ngài vâng lời Ngài. Tôi đã đưa ra định nghĩa đó tại Hội Nghị Giảng Giải Kinh và tôi bảo lưu điều đó, nhưng xin phép khai triển một chút.
Định nghĩa của tôi cố tình bao gồm một vài ngụ ý liên quan đến Kinh thánh. Thứ nhất, đó là một văn bản được thần cảm độc đáo. Thứ hai, Kinh thánh cần được mở ra. Kinh thánh đến với chúng ta như đang bị đóng một phần, có những vấn đề cần được mở ra.
Ngoài ra, chúng ta phải diễn giải Kinh thánh với sự trung thành và nhạy bén. Trung thành liên quan đến chính Kinh thánh. Nhạy bén liên quan đến thế giới hiện đại. Người giảng phải cẩn thận chú ý đến cả hai.
Chúng ta phải luôn trung thành với bản văn, đồng thời vẫn nhạy cảm với thế giới hiện đại, với những mối bận tâm và nhu cầu của nó. Khi điều này xảy ra thì người giảng có thể kỳ vọng hai điều. Thứ nhất, tiếng của Đức Chúa Trời được nghe vì Ngài (đang) phán qua điều Ngài đã phán. Thứ hai, dân Ngài sẽ vâng lời Ngài – tức là họ sẽ đáp ứng với Lời Ngài được rao giảng.
Mohler: Ông rõ ràng là rất coi trọng việc giảng luận. Trong sách Giữa Hai Thế Giới ông đã viết nhiều về vinh hạnh của việc giảng luận, thậm chí đi xa đến mức đề xuất rằng “giảng luận là không thể thể thiếu đối với Cơ đốc giáo.” Chúng ta hiện đang ra khỏi một khoảng thời gian mà việc giảng luận bị coi không còn thích hợp với hội thánh và thế giới. Thậm chí vào những ngày đó ông cũng đã nêu rõ khẳng định của mình về việc giảng luận và tính trọng tâm của nó. Ông có đổi ý không?
Stott: Ngược lại! Tôi vẫn tin rằng giảng luận là chìa khóa đến sự đổi mới của hội thánh. Tôi là một người nhất quyết tin vào quyền năng của việc giảng luận. Tôi biết tất cả những lý lẽ chống lại giảng luận: rằng thời đại truyền hình khiến giảng luận trở nên vô ích; rằng chúng ta là thế hệ xem nhiều hơn (nghe); rằng người ta buồn tẻ với lời đã phán, hoặc đã vỡ mộng với bất kỳ hình thức truyền thông nào chỉ dùng lời nói. Tất cả những lý do đó đã được nêu lên trong thời gian này.
Tuy nhiên, khi người của Đức Chúa Trời đứng trước dân của Đức Chúa Trời với Lời của Đức Chúa Trời trong tay và Thánh Linh của Đức Chúa Trời trong lòng, thì bạn có một cơ hội độc đáo để truyền thông.
Tôi hoàn toàn đồng ý với Martyn Lloyd-Jones rằng những giai đoạn sa sút trong lịch sử hội thánh luôn là những giai đoạn mà việc giảng luận bị coi nhẹ. Đó là một tuyên bố tiêu cực. Câu đối lại cách tích cực là các hội thánh sẽ tăng trưởng và lớn lên khi Lời Đức Chúa Trời được diễn giải cách trung thành và nhạy bén.
Nếu quả là con người không thể sống chỉ nhờ bánh mà bởi mọi lời ra từ miệng của Đức Chúa Trời thì điều đó cũng đúng cho các hội thánh nữa. Các hội thánh sống, tăng trưởng, và nở rộ khi đáp lại Lời Chúa. Tôi đã chứng kiến các hội chúng trở nên sống động nhờ bộc lộ Lời Chúa cách trung tín và có hệ thống.
Bản Văn Có Ý Như Ý Của Tác Giả
Mohler: Ông đã đưa ra bức tranh về thách thức lớn nhất trong giảng luận là tạo nên một cây cầu giữa hai thế giới – thế giới của bản văn Kinh thánh và thế giới của người nghe thời nay. Cái vực ấy có vẻ càng đồ sộ hơn trong thế giới hiện đại. Làm thế nào người giảng có thể thực sự bắc cầu qua cái vực này?
Stott: Bất kỳ cây cầu nào, để thực sự hiệu quả, phải đặt chân vững ở cả hai bên bờ vực. Để xây một cây cầu giữa thế giới hiện đại và thế giới kinh thánh, chúng ta phải cẩn thận tìm hiểu cả hai. Chúng ta phải luôn tiến hành giải kinh cẩn thận, tận tâm và liên tục, đồng thời cũng cẩn thận tìm hiểu cả bối cảnh đương thời nữa. Chỉ có điều đó mới giúp chúng ta liên hệ thế giới này với thế giới khác.
Tôi thấy một việc hữu ích trong nghiên cứu cá nhân là đặt ra hai câu hỏi về bản văn – và theo đúng trình tự. Thứ nhất, “Bản văn có nghĩa gì?” và thứ hai, “Bản văn đang nói gì?”
Câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất được xác định bởi tác giả nguyên thủy. Tôi thích trích câu nói của E. D. Hirsch trong sách của ông Validity in Interpretation (Tính Hợp Lệ Trong Giải Nghĩa) như sau: “Bản văn nói điều mà tác giả của nó đã có ý muốn nói.”
Đó là phản bác chủ yếu của tôi đối với những người theo thuyết hiện sinh, là những người nói rằng bản văn có nghĩa như ý nghĩa của nó đối với tôi – tức người đọc – độc lập khỏi điều tác giả muốn nói. Chúng ta phải nói “không” với quan điểm đó. Một văn bản có nghĩa chủ yếu điều tác giả của nó muốn nói. Chính tác giả là người thiết lập ý nghĩa của văn bản đó.
Ngoài điều đó ra, chúng ta phải tiếp nhận phương pháp giải nghĩa theo ngữ pháp và lịch sử, đặt mình vào hoàn cảnh lịch sử, địa lý, văn hóa và xã hội của tác giả. Chúng ta phải làm điều này để hiểu văn bản có nghĩa gì. Không được bỏ qua điều đó.
Câu hỏi thứ hai chuyển chúng ta từ ý nghĩa nguyên thủy của văn bản sang sứ điệp hiện đại của nó – “Văn bản đang nói gì?” Nếu chúng ta đặt câu hỏi thứ nhất mà không đặt câu hỏi thứ hai thì chúng ta sa vào chủ nghĩa hoài cổ, không liên hệ với hiện thực đương đại.
Mặt khác, nếu chúng ta nhảy liền vào câu hỏi thứ hai, “Văn bản đang nói gì ngày nay?” thì chúng ta sa vào chủ nghĩa hiện sinh, không liên hệ với hiện thực của mặc khải Kinh Thánh. Chúng ta phải liên hệ mặc khải ngày xưa của Đức Chúa Trời với hiện thực ngày nay của thế giới đương đại.
Mohler: Điều đó đòi hỏi giải kinh hai lần – một là giải kinh văn bản và hai là giải kinh đời sống nữa. Có phải ý kiến của ông là đa số người Tin Lành giải kinh văn bản tốt hơn giải kinh đời sống không?
Stott: Ồ, tôi chắc chắn như thế. Chính tôi cũng đã luôn giỏi học kinh thánh hơn là hiện thực thời nay. Chúng ta yêu Kinh thánh, đọc và nghiên cứu Kinh thánh, và toàn bộ việc giảng luận của chúng ta ra từ Kinh thánh. Nhưng rất nhiều khi việc giảng luận ấy không chạm bờ bên kia của vực, chẳng bao giờ tiếp xúc với hiện thực.
Sự hấp dẫn của giảng luận theo phái tự do hoặc cấp tiến, dù ngày nay được gọi thế nào đi nữa, là việc giảng luận ấy được thực hiện bởi những con người thật sự hiện đại sống trong thế giới hiện đại, họ hiểu nó và có liên hệ với nó. Nhưng sứ điệp của họ thường lại không ra từ Kinh thánh. Sứ điệp của họ chẳng bao giờ châm rễ trong phía bản văn của vực. Chúng ta phải kết hợp hai câu hỏi có liên quan đó.
Mohler: Đa số chúng ta nghĩ về mình như là người hiện đại, nhưng chúng ta có thể bị thiếu phương pháp giải nghĩa thích hợp đối với thế giới đương đại. Ông thấy có điều gì hữu ích giúp chúng ta hiểu thế giới hiện đại tốt hơn?
Stott: Tôi có nhắc trong sách Giữa Hai Thế Giới điều tôi thấy rất hữu ích là khi tham gia vào một nhóm đọc sách mà tôi lập ra khoảng 15 năm trước đây. Họ là những sinh viên hoặc đã đi làm – mấy bác sĩ, một kiến trúc sư, một luật sư, vài giáo viên,… Tất cả đều rất cam kết với Chúa và với Kinh thánh, đồng thời cũng rất cập nhật và là những người hiện đại. Chúng tôi gặp nhau khoảng tháng một lần khi tôi ở London.
Chúng tôi quyết định cùng đọc một cuốn sách nào đó, hoặc cùng đi xem triển lãm hay xem phim, và dành buổi chiều để thảo luận về điều đó. Chúng tôi chú ý đến sách nhiều nhất. Chúng tôi lần lượt theo vòng và trình bày về ấn tượng đầu tiên rồi cuối cùng đến với câu hỏi “Thế còn Phúc âm thì nói gì về điều này?” Tôi thấy việc đó hữu ích vô cùng trong việc buộc chúng tôi phải có tư duy Kinh thánh về các vấn đề hiện đại.
Mohler: Vậy có lẽ ông hướng các nhà giảng Kinh thánh không chỉ đến với bản văn Kinh Thánh mà nên đọc rộng hơn nhiều?
Stott: Chắc chắn rồi. Tôi nghĩ việc đọc rộng là rất quan trọng. Chúng ta cần nghe những con người hiện đại và đọc điều họ viết. Chúng ta cần đi xem phim, xem truyền hình, đi nhà hát. Màn ảnh và sân khấu hiện đại là những cái gương phản chiếu thế giới hiện đại. Tôi hiếm khi đi một mình. Tôi đi với những người bạn có cùng cam kết với sự hiểu biết cẩn thận đó.
Mohler: Ông đã nói rõ rằng ông coi giảng luận là một sự kêu gọi và công việc vinh quang. Ông thấy nhu cầu lớn nhất thời nay trong việc giảng luận là gì? Việc giảng luận Kinh Thánh bị thiếu sót gì nhất?
Stott: Chà, trong các hội thánh cấp tiến hơn, việc giảng luận thiếu khủng khiếp tính kinh thánh đầy đủ. Trong cách hội thánh Tin lành thuần túy, việc giảng luận lại thiếu sót ở chỗ không đủ đương đại. Tôi chỉ có thể nhắc lại nhu cầu lớn nhất là nỗ lực hiểu các vấn đề của thế giới hiện đại. Tuy nhiên, có rất nhiều liên quan giữa các vấn đề của thế giới kinh thánh và thế giới hiện đại.
Người ta đang tích cực tìm kiếm chính những câu trả lời mà Chúa Giê-su đã đưa ra. Người ta đang đặt chính những câu hỏi mà Chúa Giê-su có thể trả lời, chỉ có điều chúng ta phải hiểu những câu hỏi mà thế giới đang đặt ra.
Tôi Bắt Đầu Bằng Sự Cam Kết Mãnh Liệt Đối Với Kinh Thánh
Mohler: Sự phục vụ của ông trong nhiều năm tại hội thánh All Souls Church ở London đã có tác động lớn ở nhiều nơi trên thế giới. Tại đó, giữa khu vực thương mại nhộn nhịp của London, ông đã trình bày phúc âm cách rất hiệu quả và quyền năng. Việc giảng luận của ông có thay đổi gì trong thời gian ông phục vụ tại hội thánh đó không?
Stott: Tôi bắt đầu với sự cam kết rất mãnh liệt với Kinh Thánh, rất coi trọng thẩm quyền và sự thần cảm của Kinh Thánh. Tôi đã luôn yêu Lời Chúa – kể từ hồi trở lại đạo. Do đó, tôi đã luôn tìm cách thực hành công việc giải kinh và giải luận Kinh thánh.
Hồi mới giảng tôi thường nghĩ việc của tôi chỉ là giải kinh và diễn giải bản văn; tôi e là đã bỏ mặc việc áp dụng cho Đức Thánh Linh. Thật kinh ngạc là chúng ta có thể che đậy sự lười biếng của mình bằng những câu từ nghe có chút thuộc linh! Chắc chắn là Đức Thánh Linh có thể và thật sự có áp dụng Lời Chúa cho người nghe. Nhưng sẽ là sai nếu phủ nhận trách nhiệm của mình trong việc áp dụng Lời Chúa.
Tất cả các nhà giảng đạo lớn đều hiểu điều này. Họ tập trung vào phần kết luận, phần áp dụng bản văn. Đó là điều mà những người Thanh giáo gọi là “giảng thấu đến trái tim.” Việc giảng luận của chính tôi đã thay đổi theo cách đó. Tôi đã học bổ sung phần áp dụng cho phần diễn giải – và đó là bắc cầu qua vực.
Mohler: Gần đây ông có xuất bản một cuốn sách dày về thập tự (The Cross of Christ, Thập Tự Của Đấng Christ, Nhà xuất bản InterVarsity Press, 1986). Điều này đã luôn là trọng tâm trong việc giảng luận của ông – và của mọi người giảng luận Cơ đốc chân chính. Ông có cảm rằng các tòa giảng ngày nay thiếu tập trung vào thập tự?
Stott: Đúng thế, theo như tôi thấy là chưa đủ. Tôi nghĩ chúng ta cần trở lại với thực tế rằng thập tự là trọng tâm của Cơ đốc giáo theo Kinh thánh. Chúng ta không được phép chỉ chủ yếu nói đến sự nhập thể, hoặc chủ yếu nói đến sự phục sinh. Tất nhiên, thập tự giá, sự nhập thể và phục sinh đều phụ thuộc lẫn nhau. Không thể có sự cứu chuộc nếu không có nhập thể hoặc không có phục sinh. Sự nhập thể chuẩn bị cho sự cứu chuộc và sự phục sinh xác nhận sự cứu chuộc, nên chúng luôn phụ thuộc lẫn nhau.
Tuy nhiên Tân Ước cho thấy rõ ràng là thập tự ở trung tâm. Tôi thấy lo ngại là một số người Tin lành không coi việc Đấng Christ bị đóng đinh là trọng tâm. Tất nhiên, chúng ta giảng toàn bộ đức tin Kinh thánh, nhưng với thập tự giá là trung tâm.
Một trong những điều ngạc nhiên khi tìm hiểu các sách viết về chủ đề này là phát hiện đa số các sách về thập tự chỉ tập trung vào sự chuộc tội. Tân Ước có nhiều chỗ nói về thập tự mà tại đó sự chuộc tội không phải là điểm nhấn. Chẳng hạn, chúng ta được lệnh phải vác thập tự mình mà theo Đấng Christ. Tiệc thánh là thánh lễ có thập tự làm trung tâm. Có nguyên một câu hỏi về sự quân bình trong thế giới hiện đại. Các vấn đề về sự chịu khổ và hình ảnh bản thân được đề cập tới bởi thập tự. Những vấn đề này trở nên khá khác khi thế giới quan của chúng ta được thập tự chi phối.
Chúng Ta Thuộc Về Phòng Học, Không Phải Văn Phòng
Mohler: Có lẽ ông nổi tiếng tại Mỹ cũng như tại Anh. Hơn nữa, ông biết nước Mỹ, cùng các hội thánh và các nhà giảng đạo của Mỹ. Ông có lời gì cho những đầy tớ của Lời Chúa ở phía bên này biển Atlantic?
Stott: Tôi nghĩ lời chủ yếu của tôi với các nhà giảng đạo Mỹ là, như Stephen Olford đã thường nói, chúng ta thuộc về phòng học, không phải văn phòng. Biểu tượng của mục vụ là một cuốn Kinh thánh – không phải cái điện thoại. Chúng ta là những người phục vụ Lời Chúa, không phải hành chính tổ chức, và chúng ta cần tái học hỏi vấn đề về trình tự ưu tiên trong mỗi thế hệ.
Các Sứ Đồ đã gặp nguy cơ bị phân tán trong chức vụ mà họ được Chúa Giê-su gọi tới – chức vụ Lời Chúa và cầu nguyện. Chút nữa thì họ bị phân tán sang mục vụ xã hội cho những bà góa đang cãi nhau.
Cả hai việc đều quan trọng, và cả hai đều là phục vụ, nhưng các Sứ Đồ đã được gọi đến mục vụ Lời Chúa chứ không phải mục vụ bàn tiệc. Họ đã phải ủy thác mục vụ bàn tiệc cho những đầy tớ khác. Chúng ta không phải là các Sứ Đồ, nhưng có việc dạy dỗ đã được giao cho chúng ta để mở ra sứ điệp của các sứ đồ trong Tân Ước. Đó là ưu tiên của chúng ta như là những mục sư và giảng đạo.
Chúa Giê-su đã giảng cho đám đông, cho nhóm nhỏ, và cho các cá nhân. Ngài có đám đông, có các môn đồ, và có những cá nhân đến với Ngài. Ngài giảng cho đám đông, dạy cho các môn đồ, và tư vấn cho những cá nhân. Chúng ta cũng phải có sự tập trung như vậy. Tất cả đều là mục vụ của Lời Chúa.
Chuyển ngữ: Đội ngũ Ba-rúc
Leave a Reply
Want to join the discussion?Feel free to contribute!